Thuyết lý của ý chí tự do là sản phẩm của giai cấp lãnh đạo, nhất là giai cấp tu sĩ, kẻ tuyên bố con người tự do trách nhiệm lấy nó; tức cái cho phép họ hay Thượng đế của họ phán đoán và trừng phạt.
Khi tin rằng được tự do, con người cũng tin mình trách nhiệm. Đó là ảo tưởng được hội sống sáng tạo cho họ. Hội sống giáo dục con người và đặt kỷ luật cho con người để biến thành "con vật biết thốt ra lời hứa". Một con vật muốn hưởng lợi ích của đời sống tập thể phải biết hứa vâng phục vào một số định tắc. Cái "áo bó hội sống " đó làm cho con người thành nhất định một kiểu và đồng loạt giống nhau.
Nietzsche biện luận rằng con người không có tự do, thì không trách nhiệm gì về hành động của mình và hiện hữu của mình. Cá nhân là bọt sóng đáng thương của cơn sóng biến dịch cần thiết. Trừng phạt một kẻ phạm tội là trừng phạt số mệnh muôn thuở. Nhà triết học phải nói như Jésus. "Đừng phán đoán", họ muốn được công chính, thay vì bị phán đoán.
Để đóng đinh vào ký ức con người các lời hứa đã làm sẵn, để ngăn cản con người quên đi những lời "tôi không muốn", hội sống đã dùng những phương tiện ghê tởm ngược nhau: thời tiền sử chẳng có gì tàn bạo bằng phương pháp nhét vào ký ức của luân lý. Bị nhốt trong gông cùm hội sống con người không cần biết lợi dụng những bản năng của tự do hoang dã, căm hờn, tàn khốc, nhu cầu lấn át. Từ đó họ quay sang chống lại chính mình. Không thể hành hạ kẻ khác, họ quay sang hành hạ mình: vì thế sinh ra ý thức ngụy trá, cơn bệnh trầm trọng nhất của con người. Linh hồn áp dụng cho mình ý chí hùng tráng của chính nó, nó tự làm đau khổ vì sung sướng khi gây đau khổ.
Phần khác ý niệm luân lý của lỗi lầm có nguồn gốc là khái niệm tất cả chất liệu của nợ nần (tiếng Đức Schuld chỉ định cả hai nghĩa trên). Kẻ mắc nợ, để ghi sâu trong ký ức mình số tiền phải trả và cũng để gây lòng tin nơi chủ nợ; phải hứa với người này rằng, trong trường hợp hắn không trả được, sẽ đền bù cho họ tài sản mà hắn còn lại, nghĩa là thân xác hắn, vợ hắn; tự do của hắn hay chính cuộc đời riêng tư của hắn. Người chủ nợ sẽ lấy lại nợ bằng cách khinh khi, bạc đãi, hành hạ con nợ.
Thế nên liên lạc giữa cộng đồng hội sống với nhau chính là liên lạc giữa chủ nợ và con nợ: Hội sống trừng phạt những ai không giữ lời hứa đã trao, như chủ nợ trừng phạt con nợ. Khái niệm nợ nần dần dà áp dụng vào các tương quan giữa các thế hệ hiện thời và các thế hệ đi trước nó. Người ta tin rằng nòi giống chỉ có thể tồn tại nhờ sức lao động và hy sinh của tổ tiên, những người này sống lại trong tinh thần hùng tráng và tiếp tục bảo vệ chủng tộc họ. Thế hệ ngày nay phải hoàn lại số nợ đã mắc họ bằng lao lực và hy sinh.
Tổ tông xa xưa nhất đã biến hình thành Thượng đế bằng tưởng tượng và sợ hãi: Từ đó con người tin mình mắc nợ với Thánh Thần. Những ý niệm uẩn ức này nuôi nấng cho ý thức ngụy trá. Các tu sĩ, là nghệ sĩ trong lĩnh vực này, dạy cho con người biết rằng nếu họ đau khổ chẳng qua vì họ chống trả nợ cho Thượng đế, vì họ đã phạm tội. Con người mang ý thức ngụy trá chụp ngay lấy tà thuyết tôn giáo để đẩy nỗi khổ nhục của mình lên đến cùng độ: họ tin mình là kẻ phạm tội, họ sung sướng trong cái đê tiện của mình, trong cái tự khổ hình đóng đinh thập tự của mình.
Họ coi mọi hành động tự nhiên là tội lỗi, chẳng hạn hành động truyền giống. Họ coi mọi thứ đau khổ đều là trùng phạt, họ tìm trong đau khổ một phương tiện giảm tội lỗi của mình. Tội lỗi là "biến cố cơ bản trong lịch sử những tâm hồn bệnh hoạn".
Phải tránh cho con người ảo tưởng tội lỗi, phải lột bỏ ý thức ngụy trá ở họ: họ là kẻ vô tội nhất mà họ không ngờ được. Khi họ không còn tự xem là xấu xa, ngụy trá, họ cũng sẽ không còn là tội lỗi nữa.
Con người và thế gian phải xuất hiện lại trong buổi bình minh, vô tội trong trắng. Phải trả lòng trong sạch lại cho khổ đau bằng cách chấm dứt lẫn lộn vào đây ý tưởng phạm tội. Hối hận sau khi đã hành động sai lầm chính là một dại dột thứ hai thêm vào dại dột thứ nhất. Lòng hối hận về một hành động của mình, đó không phải là cách để sửa chữa hành động này: hành động không xóa được bằng hối hận. Phải là một nhà thần học thì mới tin được có một sức mạnh xóa bỏ lỗi lầm. Điều đáng giá hơn cả là phải vô luân và không tin vào lỗi lầm.
Không có tội ác vĩnh cửu, cũng không có phần thưởng đời sau. Vả lại, cũng rất lạ lùng khi thấy đức hạnh mà còn đòi phần thưởng. Hãy nghe Zarathoustra về điểm này:
"Hỡi người đức hạnh, bạn muốn được trả nợ ư? Bạn muốn được đền bù phần thưởng về đức hạnh của bạn, muốn có ngôi vị ở trần gian, trên cõi trời, chỗ vĩnh cửu trong hiện tại của bạn ư?
"Bạn có phẫn nộ không khi nghe tôi giảng rằng chằng có trả nợ không có đền bù. Thực ra tôi cũng chưa nói rằng đức hạnh, chính tự nó đã là một phần thưởng rồi!
"Hỡi ơi đó là nỗi buồn tiếc của tôi. Người ta đã xảo quyệt du nhập vào tận trong lòng vật thể ý niệm phần thưởng và trừng phạt và vào ngay tận cùng tâm hồn của các bạn nữa, hỡi người đức hạnh.
"Nhưng cũng như răng nanh con heo rừng, lời nói của tôi xé nát tận cùng tâm hồn bạn. Tôi muốn được là lưỡi cày đối với bạn.
"Bạn yêu đức hạnh của mình như người mẹ yêu con. Nhưng có bao giờ người ta nghe người mẹ đòi trả giá về tình yêu thương của mình đâu?
Lược trích từ ‘Nietzsche- Cuộc đời và triết lý - Felicien Challaye’
Mạnh Tường dịch