Erick Erikson |
1. Hành trình đi tìm mơ ước
Trong số những người sống ở bộ lạc Oglala Lakota (khu vực của người bản địa đầu tiên của Hoa Kỳ), một truyền thống được lưu truyền từ lâu đời cho tất cả các trẻ em nam ở tuổi dậy thì là sẽ một mình ra đi tìm kiếm mục đích của đời mình. Các em ra đi không có bất cứ một thứ vũ khí nào và chẳng mặc quần áo gì ngoài một cái khố và một cái khăn moccasins. Đấy là những trang bị mà em có được trên con đường chinh phục giấc mơ của mình. Đói và khát, mệt lả người, các cậu bé đã mong đợi sẽ nhìn thấy ước mơ của mình sau bốn ngày đói khổ. Một giấc mơ sẽ mở ra cho các cậu nhìn thấy đời sống trong tương lai của mình.
Khi trở về nhà cậu bé sẽ kể lại cho già làng nghe giấc mơ của mình. Sau đó cụ sẽ giải thích giấc mơ ấy theo cách của người cổ xưa để lại. Chính giấc mơ ấy sẽ quyết định xem cậu bé ấy sẽ là một thợ săn cừ khôi, một chiến sĩ can đảm, hay là một tay ăn cắp ngựa không ai bì kịp, hoặc anh ta sẽ là một người thợ chế tạo vũ khí, một nhà lãnh đạo tinh thần, một thầy tế lễ, hay là một thầy lang phục vụ cho mọi người.
Trong một vài trường hợp, một giấc mơ sẽ đưa cậu bé đến nơi tập trung của những kẻ lập dị, bị nhốt cách biệt với những người Oglala khác. Một giấc mơ liên quan đến tiếng sấm có thể đưa cậu bé trải qua một thời hạn như một heyoka, vốn là người phải nhảy nhót như một tay hề hay một thằng khờ trong một thời gian. Hoặc nếu như giấc mơ của cậu bé là mặt trăng hay là một con trâu trắng, cậu bé ấy sẽ có một cuộc đời như một berdache – một người đàn ông phải ăn mặc và xử sự như thể anh ta là một người đàn bà. Cứ thế, có nhiều giấc mơ để trở thành người bình thường và rất ít những giấc mơ để trở thành người có chuyên môn và có chức quyền.
Khi Erick Erikson đến thăm Oglala Lakota, các sinh hoạt nơi đây đã được thay đổi ít nhiều. Những người dân bản địa này được đưa vào những trại tập trung và trải qua những thay đổi bởi chiến tranh do người da trắng gây ra. Cuối cùng là những hiệp định thương nghị bất lợi cho họ. Những đàn trâu hoang dã một dạo là nguồn thức ăn, cung cấp quần áo, nhà ở, và hầu như là nguồn cung cấp mọi thứ và bây giờ đã tuyệt chủng. Tệ hơn nữa là lối sống của họ đã thay đổi, không phải vì những người lính da trắng xâm lược mà là từ những chính sách của chính phủ đang cố gắng biến những người dân bộ tộc Lakota trở thành những công dân Hoa Kỳ văn minh hiện đại.
Tất nhiên là các giáo viên da trắng đến đây dạy học đã vấp phải một trở ngại lớn là các con em bộ tộc Lakota không chịu nghe theo các hướng dẫn và chỉ dạy của các thầy cô. Các em đã quen với cuộc sống bụi bặm, nô đùa với tự nhiên nên tỏ ra khó chịu với những tiêu chuẩn vệ sinh. Các em được dạy im lặng ở nhà nên việc phát biểu trong lớp là điều các em đã chưa từng quen.
Thời gian trôi qua, cuộc sống bình thường hôm xưa đã mất, nền văn hóa mới chẳng thể là một sự thay thế phù hợp. Không còn những hành trình đi tìm giấc mơ như xưa nữa. Và các cậu bé tuổi dậy thì hôm nay chẳng biết kiếm đâu ra những giấc mơ tương lai cho mình.
Erikson cảm động trước những khó khăn này của các trẻ em bộ tộc Lakota mà ông đã có dịp quan sát và truyện trò. Ngay cả việc lớn lên và rồi sẽ làm gì cũng đã là một trở ngại đối với nhiều em ở lứa tuổi dậy thì da trắng khác. Trong khi đó các em bé da đen lầm lũi vật lộn với hiện tại khi nguồn gốc tổ tiên Châu Phi của mình bị mất đi. Các em bé Châu Á cũng đang phải căng giãn giữa văn hóa Tây phương và văn hóa phương Đông. Đơn giản là những ngày lễ và phong tục của văn hóa Hoa Kỳ đã tác động mạnh mẽ lên những em bé thiểu sổ, trong đó có cả những em bé bộ tộc Lakota.
Giống như các em bé da đỏ bản xứ, nhiều trẻ em Hoa Kỳ đã không còn nhận ra những cột mốc quan trọng trong hành trình phát triển tâm lý của mình. Các em bỡ ngỡ không biết đến khi nào mình sẽ là người lớn. Khi nào là tuổi dậy thì? Khi nào là thời điểm tốt nhất cho kinh nghiệm giao hợp lần đầu tiên? Rồi học xong cấp ba, các em sẽ có bằng lái xe, tốt nghiệp đại học, đi làm? Chính xác ra là các em không xác định được chính thức khi nào được coi mình là người lớn.
Trong những năm tháng truyền thống (cách đây chừng 25 đến 50 năm), một chàng trai và một cô gái thường quan sát cha mẹ, họ hàng, lối xóm, và thầy cô để tìm ra cho mình những ứng xử phù hợp. Họ là những người chịu khó và hiền lành, biết ứng xử và tiết độ. Nói chung đây là những mẫu người chúng ta rất muốn có được hôm nay.
Thật đáng tiếc, trẻ em hôm nay đã tin vào những phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là ti vi để tìm ra những gương mẫu sống. Những người trên ti vi trông đẹp đẽ hơn, giàu có hơn, thông minh hơn, khôn ngoan lanh lợi hơn, và có vẻ hạnh phúc hơn những người bình thường hàng xóm của chúng ta. Rất buồn, những mô hình đó hoàn toàn không thực tế.
Trong xã hội hiện đại hôm nay, nhiều em sinh viên đã vỡ mộng khi nhận ra ngành học của họ đòi hỏi quá khó khăn so với khả năng của mình. Rồi công việc nhàm chán và đơn điệu. Chẳng có gì hấp dẫn và sáng tạo như trong ti vi cả. Cuối cùng những lối đi tắt và lỗi lầm đôi khi phản ánh rất sát và khá trung thực với những gì chúng ta nhìn thấy: Bạo lực và nổi loạn, chán đời và phá bĩnh.
2. Tiểu sử của Erick Erikson
Erick Erikson sinh tại Frankfurt , nước Đức ngày 16 tháng 6 năm 1902. Một điều thú vị là cha của ông là một người Hà Lan đã bỏ rơi mẹ con ông trước khi ông chào đời. Mẹ ông là Karla Abrahamsen, một phụ nữ trẻ gốc Do Thái đã nuôi con một mình trong ba năm đầu tiên. Sau đó bà lấy chồng là bác sĩ Thoedor Homberger, một bác sĩ nhi đồng chuyên khám bệnh cho Erick, rồi họ dọn về sống ở Karlsruhe, miền nam nước Đức.
Một nét nổi cộm trong tiểu sử của Erick đã ghi rõ là người ta chẳng biết ai đã thôi thúc và để lại dấu ấn rất đậm lên cuộc đời cũng như công trình nghiên cứu của ông. Khi còn bé và lúc mới trưởng thành, Erick có tên đầy đủ là Erick Homberger. Cha ghẻ và mẹ ông đã giấu hẳn chuyện giấy khai sinh thật của ông. Thành ra ông là một chàng trai cao ráo, tóc vàng, mắt xanh, gốc Do Thái. Khi ở trường đạo, bọn trẻ chọc ông là người Bắc Âu và ở trường tiểu học thì ông bị chế nhạo là thằng bé Do Thái.
Sau khi tốt nghiệp cấp ba, Erick muốn mình sẽ trở thành một họa sĩ. Những lúc rảnh rỗi, ông thường ngao du khắp nơi thuộc Châu Âu, viếng thăm các viện bảo tàng và có lúc đã ngủ bên dưới gầm cầu. Ông đã từng sống lang thang bụi đời trong một thời gian rất lâu trước khi ông có thể nhận ra mình sẽ phải làm một cái gì đó.
Khi ông được 25 tuổi, một người bạn cùng giới nghệ sĩ là Peter Blos, sau này trở thành nhà phân tích tâm lý đề nghị ông nên xin dạy học tại một trường thí điểm tại Hoa Kỳ, được lãnh đạo bởi Dorothy Burlingham – một người bạn của Anna Freud. Ngoài việc dạy nghệ thuật, ông tiếp tục học và được cấp chứng chỉ giáo dục do viện Montessori và Hội phân tích Tâm lý Vienna do chính tay Anna Freud cấp. Trong thời gian đó, ông gặp Joan Sersons, một giáo viên dạy múa người Canada . Họ lấy nhau và có 3 người con, một người con của ông sau này trở thành một nhà xã hội học.
Khi nhóm phát xít Nazis thành công và lên nắm quyền, gia đình họ rời Vienna . Đầu tiên họ đến Copenhagen , sau đó là Boston . Erick được đề nghị nhận một chân giảng dạy tại trường Đại Học Y Dược Harvard và thực hành phân tích tâm lý trẻ em với tư cách tư nhân riêng rẽ. Trong thời gian này, ông gặp gỡ các tâm lý gia khác như Henry Murray và Kurt Lewin, cùng với các nhà nhân chủng học như Rith Benedict, Margaret Mead, và Gregory Bateson. Đây là nhóm những người có ảnh hưởng lớn đến Erick, giống như Sigmund Freud và Anna Freud đã từng có ảnh hưởng đến ông.
Sau đó ông giảng dạy ở Đại học Yale. Kế đó ông dạy tại Đại học Tiểu bang California tại Berkely. Trong thời gian này, ông đã bắt tay vào thực hiện chương trình nghiên cứu nổi tiếng của mình về đời sống hiện đại nơi bộ tộc Lakota và bộ tộc Yuork. Khi trở thành một công dân Hoa Kỳ, ông chính thức đổi tên của mình thành Erick Erikson. Chẳng ai biết ông đã chọn cái tên này vì lý do gì.
Năm 1950, ông viết cuốn Tuổi Thơ Và Xã Hội, trong đó ghi lại những khám phá của ông với các em bé da đỏ bản xứ, và những phân tích về Maxim Gorkiy và nhà độc tài Adolph Hitler. Trong tác phẩm này ông liên hệ những phân tích về thuyết của Freud, cũng như về nhân cách của người dân Hoa Kỳ. Đây là những đề tài mô tả khá kỹ lưỡng về ảnh hưởng của văn hóa lên nhân cách con người. Cũng trong thời gian này Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy đã gây ra những lo lắng chung cho tình hình an ninh xã hội ở Tiểu bang California , Erikson rời Berkeley vì các giáo sư buộc phải ký lời thề trung thành. Sau đó ông làm việc 10 năm với một Trung tâm y tế ở Massachusetts, rồi dạy 10 năm nữa ở Đại học Harvard. Từ đó ông nghỉ hưu. Sau cùng ông tiếp tục viết và làm nghiên cứu với vợ của mình. Ông mất năm 1994.
3. Học thuyết Nhân cách của ông
Erikson là một nhà tâm lý về cái tôi thuộc trường phái Freudian. Điều này cho thấy ông đã chấp nhận các khái niệm tâm lý của Freud như những nền tảng đúng đắn căn bản, kể cả những vấn đề hiện vẫn đang gây ra bàn cãi như hội chứng khủng hoảng Oedipus, cũng như những tư tưởng về cái tôi đã được Heinz Hartman và Anna Freud xây dựng.
So với các nhà tâm lý học thuộc trường phái Freudian, ông là người chú trọng đến yếu tố xã hội và ảnh hưởng văn hóa lên nhân cách nhiều nhất. Có lẽ do tác động của các bạn là những nhà nhân chủng học. Do chịu nhiều ảnh hưởng của họ, vì thế ông thường có xu hướng gạt bản năng và vô thức ra khỏi phạm trù tâm lý. Có lẽ vì thế ông đã được cả hai phe Freudian phe chống Freudian chú ý đến.
4. Nguyên lý phát triển hình thành nhân cách
Ông là người nổi tiếng trong việc chắt lọc và phát triển thuyết của Freud liên quan đến những thời kỳ phát triển nơi người. Ông cho rằng quá trình phát triển dựa trên nguyên lý phát triển hình thành, theo đó một sinh thể sẽ phát triển qua những giai đoạn đã được định sẵn xảy ra trong quá trình phát triển của con người qua 8 bước. Theo ông, những bước phát triển đầu tiên sẽ có tác động thuận lợi hay bất lợi lên các bước sau đó. Ông so sánh những bước phát triển này giống như một đóa hoa hồng nở ra với mỗi một cánh hoa là một lớp phát triển. Và như thế cần phải có những bước phát triển cần xảy ra theo một trình tự thời gian hợp lý.
Mỗi giai đoạn phát triển có những nhiệm vụ liên quan đến phát triển tâm lý. Xuất phát từ hệ thống tư tưởng của Freud, ông tin rằng những vấn đề vấp/khựng trong quá trình phát triển sẽ dẫn đến những khủng hoảng. Tuy nhiên ông cho rằng những trạng thái vấp/khựng chỉ nên được đánh giá là những gợi ý và mang tính khái quát nhiều hơn. Cũng theo ông, những vấn đề và nhiệm vụ của một giai đoạn phát triển nên được coi là những khu vực có ảnh hưởng từ tác động của giao tiếp với môi trường bên ngoài, thay vì có liên hệ trực tiếp đến nội lực bên trong.
Theo ông, những phạm trù sinh hoạt và phát triển luôn có hai thái cực. Chẳng hạn như đối với các trẻ em sơ sinh, ông cho rằng các em sẽ thường trải qua hai thái cực kinh nghiệm là tin tưởng - hoặc không tin tưởng nơi cha mẹ của mình trong quá trình được chăm sóc. Tuy ban đầu các em học cách đặt niềm tin, nhưng sẽ có lúc các em nhận ra rằng không nên quá tin tưởng (sau này dẫn đến việc không tin tưởng). Tuy nhiên theo ông thì không tin tưởng sẽ là một bộ phận giúp cho các cá nhân có tinh thần cảnh giác nhiều hơn.
Ông cho rằng ở mỗi một thời điểm phát triển sẽ có riêng những khả năng và những nhiệm vụ cần được xử lý thành thạo. Một em bé không thể trở thành một người lớn mà không qua những giai đoạn phát triển. Những khả năng và nhiệm vụ của từng giai đoạn phải phù hợp và đi theo trào lưu chung của nhóm tuổi giai đoạn phát triển đó, vốn có thể quan sát được. Tuy nhiên trong thực tế ta thấy có nhiều bậc phụ huynh vì nôn nóng hoặc quá đặt nặng vấn đề thành công nên đã thúc ép các con em của mình. Trên thực tế, mỗi thời điểm có một số nhiệm vụ mà các em cần đạt được. Làm nhanh hơn hoặc chậm hơn tiến trình này đều dẫn đến những bất thường trong phát triển ở tương lai về sau.
Nếu ở từng thời kỳ giai đoạn phát triển được điều chỉnh thuận lợi một cá nhân sẽ có những gặt hái tốt đẹp về mặt tâm lý, giúp họ tiếp tục phát triển bình thường ở những giai đoạn tiếp theo. Nếu không xử lý những nhiệm vụ được đặt ra cho từng giai đoạn phát triển, một cá nhân sẽ có những ảnh hưởng không bình thường về tâm lý, dẫn đến việc có những hành vi thiếu lành mạnh và những hành vi độc hại, kể cả việc họ có những tư duy khập khiễng về sau này.
Trong đó những hành vi độc hại là rất nguy hiểm vì cá nhân có quá nhiều tư duy tiêu cực nhưng lại thiếu hẳn về mặt tư duy tích cực. Tất nhiên những người như thế sẽ không có nhiều niềm tin nơi người khác, tệ hại hơn là họ luôn luôn có sự nghi ngờ vào tất cả xung quanh.
5. Trẻ em và người lớn
Có lẽ sáng tạo tiên phong lớn nhất của Erikson là việc đề xuất không chỉ 5 giai đoạn như với Freud. Nói khác đi là Erikson đã khai triển 5 bước giai đoạn ấy của Freud và cố gắng đem lại khả năng dung hòa áp dụng vào điều kiện thực tế bằng cách đưa thêm vào 3 giai đoạn khác nơi người trưởng thành. Con người là một sinh thể không ngừng phát triển – nhất là về mặt tâm lý. Con người không ngừng phát triển lần sinh nhật lần thứ 12 hay thứ 15 nào đó. Vì thế sự phát triển thêm 3 giai đoạn nữa của Erikson đã có một ảnh hưởng tương đối thuận lợi, được đông đảo học giả đón nhận.
Ngoài ra Erikson còn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự giao lưu đối thoại giữa nhiều thế hệ khác nhau. Freud đã trình bày về ảnh hưởng của cha mẹ trong việc giúp phát triển hình thành nhân cách của trẻ em. Tuy nhiên Erikson cho rằng chính trẻ em đã có những tác động ảnh hưởng lên người lớn. Ông cho rằng sự ra đời của một trẻ em đã thay đổi rất nhiều đến đời sống của một cặp vợ chồng trong suốt một khoảng thời gian dài. Theo Erikson, trẻ em học hỏi rất nhiều từ cha mẹ và ông bà. Ngược lại, cha mẹ, ông bà cũng học hỏi được rất nhiều từ trẻ em. Điều này có thể được nhận ra qua câu ca dao của người Việt Nam :
Sinh con rồi mới sinh cha,
Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông.
6. Hành trình phát triển ở người
Hành trình phát triển của con người là một hành trình bao gồm nhiều bước phức tạp và tương đối rắc rối, ngay cả đối với nhiều nhà học thuyết cũng có những nhầm lẫn. Nhưng không hẳn vì thế mà những ngõ ngách của vấn đề lại trở nên không được xem xét quan tâm. Theo Erikson, 8 giai đoạn phát triển rất đặc trưng nơi con người bao gồm:
– Giai đọan 1 (mới sinh đến 1 tuổi): là lúc các trẻ em sơ sinh tín thác tin tưởng hay thiếu niềm tin và không tín thác mẹ ruột của mình. Nếu bé tin tưởng cha mẹ, bé sẽ có trạng thái tinh thần vui vẻ, tin tưởng, đầy hy vọng. Nếu bé không tin tưởng nơi cha me, niềm tin của bé bị lấy mất, bé có thể tìm cách tránh né và co cụm.
– Giai đoạn 2 (trẻ tập đi): là lúc trẻ phát triển khả năng tự chủ hay bé đã biết mắc cỡ. Trẻ thường có thể sẽ quá lệ thuộc, có thể tự mình khám phá, tự quyết định, hoặc có thể sẽ có những cá tính nóng nảy được phát triển, hoặc trẻ sẽ đòi hỏi.
– Giai đoạn 3 (trước tuổi đến trường – tuổi mầm non): là lúc bé phát triển khả năng chủ động hoặc có mặc cảm. Trong lúc này các em chủ yếu quan sát mọi sinh hoạt của gia đình, trẻ rất thích chơi đùa. Nếu phát triển bình thường, trẻ sẽ hiếu động, có tính can đảm. Tuy nếu được nuông chiều quá mức, trẻ có thể hỗn hào. Nếu không phát triển khả năng chủ động, nhiều em sẽ trở nên co cụm, yếm thế, nhút nhát.
– Giai đoạn 4 (từ 7 đến 2 tuổi): là giai đoạn các em đến trường. Đây là lúc các em phát triển năng động cần cù khéo léo. Nhiều em do không phát triển có thể rơi vào não trạng nhược tiểu, thua kém, không có năng lực. Lúc này trẻ sẽ phải đối diện với hàng xóm, trường học và gia đình. Trẻ trong thời kỳ này tập trung phát triển những kỹ năng ứng xử và khả năng tiếp thu. Nếu không thuận lợi, nhiều bé sẽ rơi vào trạng thái thụ động, ù lỳ.
– Giai đoạn 5. (tuổi dậy thì 12 đến 18 tuổi): đây là giai đoạn phát triển cái tôi và nhận diện chính mình – hay còn gọi là quá trình xác định nhân định. Trong giai đoạn này các em dễ rơi vào nhầm lẫn về vai trò của mình. Môi trường sống sẽ có những ảnh hưởng lớn đến các em trong giai đoạn này, nhất là ảnh hưởng từ bạn bè cùng trang lứa và những người lớn có vai trò gương mẫu. Các em cố gắng phấn đấu và khám phá xem mình là ai. Các em có khuynh hướng trung thành với những giá trị nhân cách mà các em có ấn tượng. Nếu không phát triển bình thường, các em dễ rơi vào khó khăn, dễ lúng túng và mất phương hướng.
– Giai đoạn 6 (từ 18 đến 20 tuổi): là giai đoạn các người trẻ đi tìm bạn tình để xây dựng đời sống tình cảm thân mật hoặc có nhiều bạn rơi vào tình trạng né tránh hoặc không có bạn tình. Môi trường ảnh hưởng chính vẫn là bạn bè. Nhiều người hạnh phúc với những lựa chọn của mình, nhưng cũng có nhiều bạn trẻ gặp khó khăn trong việc tìm cuộc sống cho mình. Vì thế đã dẫn đến việc một số người ráo riết đi tìm bạn tình, họ ga lăng và hào phóng. Tuy nhiên sẽ có người co cụm, né tránh.
– Giai đoạn 7 (từ 20 đến 50 tuổi): là khoảng giữa của tuổi trưởng thành. Ở giai đoạn này người ta có thể phát triển lành mạnh và tin rằng mình là người có ích cho cuộc đời, tuy nhiên một số chìm đắm vào riêng cá nhân bản thân mình. Môi trường ảnh hưởng chủ yếu là sinh hoạt trong gia đình, và với đồng nghiệp tại cơ quan. Người có phát triển bình thường ở giai đoạn này sẽ mở rộng mình với cuộc sống, và người không phát triển bình thường sẽ dễ cáu bẳn, chỉ lo lắng ưu tư đến bản thân.
– Giai đoạn 8 (từ 50 tuổi trở đi): là khoảng sau cùng của tuổi trưởng thành. Cá nhân trong giai đoạn này thường nhắm đến phát triển để đạt được tính nguyên tắc nhất quán trong mục đích của mình hoặc chán nản thất vọng vô nghĩa. Họ thường nhìn vào những mẫu tuýp người để so sánh. Để từ đó người phát triển bình thường sẽ an tâm với cuộc sống và người không phát triển bình thường sẽ có những biểu hiện chán nản ưu phiền.
7. Mổ xẻ chi tiết các thời kỳ
– Thời kỳ đầu tiên: Ở lứa tuổi sơ sinh là giai đoạn cảm giác miệng trong khoảng 18 tháng đầu. Đây là lúc trẻ phát triển việc đặt niềm tin vào chính nơi bé. Nếu được cha mẹ cung cấp đầy đủ các nhu cầu chăm sóc, bé sẽ phát triển một cảm giác an toàn trong môi trường sống của mình. Bé sẽ cảm thấy tự tin và không còn lo lắng sợ hãi. Một môi trường an toàn sẽ khiến bé tin vào các chức năng của cơ thể. Vì thế đói bụng hay khi ướt tã không còn là những vấn đề lớn đối với bé, vì bé luôn được quan tâm chăm sóc. Nếu cha mẹ không cung cấp và đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu bé sẽ dần dần mất niềm tin vào cuộc sống, bé sẽ lo lắng và sợ hãi, giảm hẳn niềm tin nơi mọi người xung quanh.
Tuy nhiên cần chú ý, các bậc cha mẹ không thể hoàn toàn tuyệt hảo. Nhất là nhiều bậc cha mẹ quá khẩn trương đến từng yêu cầu nhỏ nhặt nhất của em bé sẽ dẫn đến việc làm hư bé vì đã gửi đi những tín hiệu sai lệch. Nhất là khi bé không ý thức được giữa nhu cầu và đáp ứng cần thiết phải có một khoảng thời gian nhất định. Và như thế sau này lớn lên, có thể bé sẽ rất nhẹ dạ cả tin vào người khác. Và khi vấp vào thực tế, bé sẽ rơi vào những não thức cả tin, đôi khi mất một thời gian dài mới có thể điều chỉnh lại được
Tệ hại nhất là nhiều bậc cha mẹ đã không có sự cân bằng trong chăm sóc hoặc không được duy trì được một môi trường lành mạnh, các em sẽ rơi vào co cụm vì thiếu niềm tin, dẫn đến khuynh hướng nhân cách tránh né, rút lui, nghi hoặc, trầm cảm, buồn chán, có khả năng dẫn đến bệnh tâm thần nữa.
Nếu có sự quân bình, trẻ sẽ yêu đời, có tinh thần lạc quan, có niềm tin vào cha me. Bé sẽ tin rằng dù khó khăn nhưng sẽ có kết thúc tốt đẹp. Dấu hiệu là trẻ sẽ không bẳn gắt và cáu kỉnh trong khi chờ đợi đáp ứng của cha mẹ. Bố mẹ em không nhất thiết phải khẩn trương và như thế xây dựng trẻ không nóng tính, thể hiện đủ tính kiên nhẫn. Và khi lớn lên, trẻ sẽ có những hướng xử lý bình tĩnh như khi em còn bé.
– Giai đoạn hai: là giai đoạn có liên hệ đến các cơ vòng nơi hậu môn của thời kỳ thơ ấu, từ 18 tháng cho đến 3 đến 4 tuổi. Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là đạt được khả năng tự chủ trong khi cố gắng giảm thiểu xuống mức thấp nhất trạng thái xấu hổ và ngờ vực, nhất là vào khả năng thao tác đi vệ sinh.
Nếu cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ thường xuyên cho phép em được tự do khám phá thế giới xung quanh mình, trẻ sẽ dần dần phát triển một tính cách tự chủ và độc lập. Phụ huynh không nên quá cấm đoán hoặc chiều chuộng, càng tránh thái độ thúc đẩy quá mức cần thiết. Mức độ cân bằng rất quan trọng trong thời điểm này. Cha mẹ chăm sóc trẻ trong giai đoạn này cần kiên nhẫn nhưng nghiêm nghị. Có như thế trẻ em mới phát triển được lòng tự trọng và khả năng tự kiềm chế.
Nếu như cha mẹ quá hà khắc với con cái, sẽ dẫn trẻ đến phát triển xấu hổ hoặc ngờ vực. Khi cha mẹ quá xét nét và cấm đoán những cơ hội khám phá của con, bé sẽ ngừng lại việc khám phá và không dám mạnh dạn trong việc tìm kiếm học hỏi mọi thứ xung quanh. Ngay cả những tiếng cười sảng khoái của bố mẹ sẽ có thể gây ra những hiểu lầm có ảnh hưởng tiêu cực – nếu như bé không hiểu tại sao bố mẹ lại cười? Điều này được nêu ra để cảnh giác, nhưng không nên quá lo lắng, vì thật ra những điều bất ngờ như thế đôi khi thường khó tránh. Tuy nhiên bé cần hiểu được những cung bậc cảm xúc nơi cha mẹ là có ý tốt.
Ngoài ra nếu cho trẻ tự do phá phách và không có một nội qui nào, hoặc nếu như cha mẹ ngăn cấm một cách quá cứng nhắc, hay việc cha mẹ luôn tìm cách giúp đỡ con mình, các em sẽ không có cơ hội khám phá và học hỏi. Trẻ có thể ỷ lại hoặc nghĩ rằng mình không có khả năng tốt để xử lý những thao tác cần học. Vì thế bạn cần kiên nhẫn trong việc huấn luyện bé tập mặc quần, xỏ dép, cột dây giày, cất nón… Người lớn cần tránh coi việc này là quá khó hay việc kia là quá dễ. Hãy tạo điều kiện để trẻ tự khám phá thế giới xung quanh từ kinh nghiệm cá nhân của riêng của em.
Cần biết rằng có lúc trẻ sẽ vấp vào những kinh nghiệm xấu hổ và ngờ vực, và đây là điều không thể tránh khỏi, tuy nhiên đôi lúc đây sẽ là dịp có những lợi ích cho bé. Nếu không có những lần bé xấu hổ hoặc ngờ vực, bé sẽ dễ rơi vào não trạng hay đòi hỏi và tự mãn, hoặc là bé sẽ chẳng bao giờ biết tự trọng hay nhận ra mình đã làm sai một điều gì đó. Khi lớn lên, bé sẽ dễ rơi vào đánh giá và xét đoán người khác một cách vội vã.
Tuy nhiên quá nhiều xấu hổ và ngờ vực sẽ dẫn đến tình trạng hành vi độc hại mà Erikson tin rằng đấy là quá trình bé không thể kìm hãm được một hành vi của mình. Khi trưởng thành, họ thường rơi vào não trạng mọi việc phải đạt được kết quả thật hoàn hảo. Họ đòi hỏi phải có một hệ thống nguyên tắc và luôn luôn áp dụng một cách rất cứng nhắc với hệ thống nguyên tắc ấy. Họ rất sợ lỗi lầm và tránh mọi cơ hội phạm lỗi, tuy nhiên vì quá cứng nhắc nên họ thường mắc phải những hạn chế không cần thiết. Làm cha mẹ, bạn nên tránh để con cái thường xuyên rơi vào tình trạng xấu hổ và ngờ vực. Hãy kiên nhẫn hơn với các em một chút để các em có cơ hội khám phá và học hỏi. Như thế, bạn không chỉ tránh việc mình sẽ quá hà khắt với bé, song bạn còn làm cho mình một điều tốt đó là bạn không quá khẩn trương một cách máy móc.
Nếu như có sự quân bình giữa tự chủ và xấu hổ ngờ vực, một cá nhân sẽ phát triển khả năng có ý chí tiến thủ và khả năng có những quyết định độc lập cho bản thân mình. Nên nhớ rằng với trẻ lên ba thì chuyện được phép làm hoặc bị cấm làm một điều gì đó điều bạn cần quan tâm. Nếu bạn không muốn con phá phách, đừng bày những đồ đạc để bé sẽ phá phách. Trẻ luôn mang não trạng có thể làm được, vì thế trẻ luôn khám phá. Nếu bạn biết cách giữ gìn và trân quý, bé sẽ lớn lên và tiếp tục não trạng ấy không ngừng chủ động.
– Giai đoạn ba: là giai đoạn liên quan đến độ phận sinh dục và vận động chân tay. Giai đoạn này kéo khoảng từ 3–4 đến 5–6 tuổi, khi các em cố gắng hoàn thiện kỹ năng chủ động và cần tránh cảm giác mặc cảm.
Chủ động ở đây được hiểu là bé có những phản ứng trong sáng lành mạnh và hồn nhiên về những gì bé nhìn thấy trong đời sống và sinh hoạt của mình. Bé sẽ biết vâng lời, có tinh thần chia sẻ và háo hức học tập thêm những kỹ năng mới. Các bậc cha mẹ có thể khuyến khích bé trong việc khám phá những trò chơi chung của gia đình trong đó nhường cho bé quyền được làm người chủ động. Đây là giai đoạn chơi nhiều hơn học. Trẻ bây giờ có nhiều khả năng hơn trước đó. Ngoài ra chủ động còn là kênh cho phép trẻ thể nghiệm những điều từ trí tưởng tượng với điều kiện thực tế.
Nếu trẻ em có thể tưởng tượng ra tương lai của mình, trẻ có thể có kế hoạch và sẽ có tránh nhiệm với tương lai của mình. Trong lúc này, một số em đã có cảm giác mặc cảm về những hành vi khi em biết sẽ làm cho cha mẹ không được vui. Nếu như Freud cho rằng trẻ có những mặc cảm (hội chứng lo lắng khủng hoảng Oedipus) trong giai đoạn lứa tuổi này thì Erikson tin rằng một số trẻ có thể sẽ co cụm và tránh né nên cha mẹ cần khuyến khích trẻ năng động. Tuy nhiên những động viên này không nên ép quá tay vì có thể bé sẽ có những mặc cảm không cần thiết nếu như bé không đáp ứng được yêu cầu của cha mẹ.
Nếu bé có quá nhiều chủ động hoặc khi bé có quá ít cảm giác mặc cảm sẽ dẫn đến cá tính hỗn láo. Người có cá tính này thường luôn chủ động, họ có những kế hoạch và chương trình hành động trong mọi lĩnh vực như trong học hành, công việc, tình cảm, đến cơ hội thăng tiến nghề nghiệp. Tuy nhiên họ là người sẵn sàng chà đạp bỏ mặc những cá nhân khác và không hề quan tâm đến cảm giác của người khác. Họ chỉ nhắm đến mục đích thành công và không quan tâm đến quyền lợi của người xung quanh. Khi trở thành một thói quen thái hóa, họ sẽ là thành phần gây ra những tội ác trong xã hội.
Người không có thái độ khẳng khái cũng như là có một thái độ tiêu cực. Tuy nhiên người không có khẳng khái và thiếu thái độ dứt khoát thường khiến người khác ít khó chịu hơn so với thái độ xấc xược hỗn hào. Người thiếu khẳng khái là những người thụ động. Họ có chủ trương: Nếu ta chẳng thử nghiệm thì ta sẽ chẳng mất mát gì. Và trong chuyện tình cảm, họ có thể là người rất khô khan nguội lạnh.
Một trạng thái tâm lý cân bằng sẽ dẫn đến một não thức tâm lý có mục đích hội nhập xã hội tốt. Đây là một cảm giác lành mạnh mà mọi người trong chúng ta nhắm đến, tuy nhiên nhiều người trong chúng ta đã không nhận ra điều đó. Một bằng chứng là khi đối diện với những vấp váp và thất bại, chúng ta thường nghĩ về những điều khác (lý tưởng hơn) đáng lẽ có thể sẽ xảy ra. Nhưng nếu có não thức tâm lý ý thức về mục đích, chúng ta sẽ có những khao khát muốn được tái thiết, được làm lại từ đầu và chuyên tâm nhiều hơn nữa.
– Giai đoạn bốn: đây là giai đoạn trẻ em đến trường tiểu học (6 đến 12 tuổi). Nhiệm vụ của giai đoạn phát triển này là để phát triển những kỹ năng thao tác.. Các em thường phấn đấu và cố gắng tránh chuyện mình sẽ rơi vào những điểm yếu và bị xem và nhược tiểu vô dụng. Trong giai đoạn này các em sẽ cố gắng để đạt được điểm tốt trong môi trường học hành và ngoan ngoãn ở nhà. Nên nhớ, các trẻ em dù học kém vẫn có khao khát là học sinh giỏi, có điều các em chưa tìm ra phương pháp học. Là phụ huynh và là giáo viên, chúng ta cần tìm hiểu, giúp đỡ các em.
Trẻ thời nay được gặp gỡ nhiều người hơn trước. Ngoài cha mẹ và anh em trong gia đình, bây giờ còn có cả thầy cô và bạn bè nữa. Vào lúc này rất cần thiết đối với trẻ em là được:
– Cha mẹ khích lệ.
– Thầy cô quan tâm.
– Bạn bè chấp nhận.
Trẻ cần được hướng cách nhìn và cách nghĩ đến điều tốt và điều tốt hơn nữa. Các em cần được tạo điều kiện để cảm nhận được những giá trị tích cực và giá trị của thành công, trong lĩnh vực học tập, trên sân chơi, trong mối quan hệ xã hội và ở nhà. Ở lứa tuổi này các em thích các trò chơi có luật lệ. Các em thường tập trung vào trò chơi và chơi cho đến khi trò chơi kết thúc.
Nếu một em bé không có được cơ hội kinh nghiệm thành công vì thầy cô quá nghiêm khác hoặc các bạn bè trêu ghẹo tẩy chay, em bé đó sẽ phát triển trở nên lo lắng, yếm thể, và tin rằng mình chẳng có những năng lực nào. Các em có thể có não trạng phát triển dẫn đến những đối xử phân biệt như: phân biệt giới tính, phân biệt chủng tộc, vì các em tin rằng thành công đến từ người đó là ai, chứ không phải thành công đến bằng cách cố gắng nào. Vì thế các em không còn nhận ra ý nghĩa của sự phấn đấu cố gắng nữa.
Nếu các em có quá nhiều khả năng thao tác thành công có thể dẫn đến một xu hướng không lành mạnh gọi là não trạng đạo mạo hạn hẹp. Lúc đó trẻ em không còn là trẻ em nữa, khi mà các em được cha mẹ và thầy cô ép để trở thành những dạng thần đồng hay do trẻ có năng khiếu khác. Đó là những em bé không có tuổi thơ bình thường như những đứa trẻ bình thường khác. Đáng buồn là nhiều người trong chúng ta luôn muốn con có năng khiếu. Chúng ta có xu hướng thích thú những điều đó nơi một đứa trẻ, tuy nhiên nếu nhìn kỹ, ta thấy những tài năng ấy sẽ ăn cắp đi của các em một cuộc sống hồn nhiên trong sáng bình thường.
Nếu một em bé chẳng có chút khả năng nào điều đó cũng tệ hại không kém và các em sẽ trở thành thụ động, biến thành những người rơi vào hội chứng yếm thế. Hội chứng này dễ tạo ra những ám ảnh tâm lý. Ví dụ sau khi thử một lần không đạt kết quả, ta thường nghĩ rằng có cố gắng đến mấy cũng sẽ chẳng ăn thua gì. Nhiều người không có khiếu nói chuyện mỗi khi phải đứng trước đám đông, họ sẽ chẳng bao giờ muốn mình nói chuyện trước một cử tọa. Và như thế, khuynh hướng tránh né sẽ càng ngày càng lớn hơn. Một điều cần chú ý là sự cân bằng giữa hai thái cực vừa có khả năng và một chút yếm thế là tốt nhất, vì cá nhân đó sẽ có vừa tự tin cần thiết và đôi lúc anh ta biết đến giới hạn khả năng của mình để có tinh thần cảnh giác và biết kiềm chế.
– Giai đoạn năm: Đây là giai đoạn phát triển của tuổi dậy thì và kết thúc ở tuổi 18 đến 20. Nhiệm vụ phát triển trong lúc này là phát triển khả năng và xác định được nhận định cái tôi của mình đồng thời tránh né trạng thái nhầm lẫn về vai trò của mình. Theo Erikson thì đây là giai đoạn rất quan trọng vì có nhiệm vụ là nền tảng cơ bản cho những bước phát triển tình cảm sau này.
Nhận định cái tôi được xác định có nghĩa là khả năng biết mình là ai và mình sẽ hội nhập vào môi trường đời sống xã hội như thế nào? Điều này yêu cầu một cá nhân cần phải có khả năng hiểu rõ về bản thân và có kiến thức về những gì đã học được. Sau đó họ sẽ sắp xếp và tạo ra một chân dung về con người thực sự của mình; đây là một hình ảnh mà họ tin rằng sẽ được xã hội chấp nhận. Để quá trình này xảy ra thuận lợi, một cá nhân cần có một môi trường sống thuận lợi và được tiếp cận với những người lớn qua những kênh đối thoại cởi mở và lành mạnh.
Hơn nữa, xã hội cần tạo điều kiện để có những tấm gương công dân làm mẫu để các em phấn đấu. Như thế các em sẽ hiểu được ở độ tuổi nào thì các em sẽ cần phải làm gì? Nếu không có những tấm gương cụ thể về tinh thần quan tâm, nhất quán trong hành động và lời nói, các em sẽ dễ rơi vào những lầm lẫn bỡ ngỡ trong việc xác định một chân dung chuẩn xác cho mình. Chúng ta cần tạo điều kiện để các em có thể trả lời được một câu hỏi căn bản:
Tôi là ai?
Erikson đã đề nghị rằng trong xã hội cần có những xu hướng giải lao tâm lý. Đây là cách hãy giành ra một khoảng thời gian ngắn ngủi. Một mùa hè chẳng hạn, hãy tạo điều kiện để đi đến một nơi hoàn toàn xa lạ, thay đổi hẳn những điều thường nhật. Hãy thẩm định lại xem giá trị của thành công là gì. Erikson tỏ vẻ lo lắng khi nhiều bạn trẻ có mơ ước làm giàu và tìm mọi cách để trở nên thành công nhanh nhất nên đã quên rằng thành công thật sự có ý nghĩa không nhất định chỉ có thể đo đạc bằng vật chất.
Nhận định cái tôi được xác định là điểm tựa để cá nhân có một vai trò thích hợp, giúp họ hội nhập vào môi trường xã hội nơi họ đang sống. Tuy nhiên nhiều người vì có cái nhìn sai lệch vô tình tạo cho mình một chân dung không được chấp nhận bởi môi trường sống, tạo thành một sự nổi loạn chướng mắt. Những người này tin rằng cách làm việc của họ là cách duy nhất đúng đắn. Nhất là với lứa tuổi dậy thì, ta thấy họ thường lý tưởng hóa và có cái nhìn rất một chiều, thiếu hẳn sự linh động uyển chuyển. Xa hơn nữa, nhiều người trở thành cực đoan khi họ cố gắng quảng bá lối sống của mình (mà họ tin là đúng).
Tuy nhiên nếu không có một nhận định cái tôi được xác định cũng sẽ là một vấn đề nan giải mà Erikson đã gọi là xu hướng không lành mạnh vì con người đã chối bỏ cuộc sống. Họ có xu hướng tự gạt mình ra khỏi bức tranh cuộc sống và không tìm thấy ý nghĩa thành viên của bản thân trong những bối cảnh sinh hoạt cộng đồng xã hội hàng ngày. Nhiều người chán chường vì lạc lối. Và khi gặp phải những tổ chức xã hội cung cấp cho họ những cơ hội khẳng định mình, thế là họ nhập cuộc. Nếu đây là những tổ chức băng nhóm, bè đảng, có thể cung cấp những hình ảnh ấn tượng chóng vánh mà họ đang khao khát – nhất là với các em ở tuổi dậy thì, các em sẽ nhập cuộc một cách mau chóng. Vì các em nghĩ rằng thà là làm một cái gì đó xấu xa vẫn hơn là chẳng làm cái gì cả.
Nếu một bạn trẻ thành công trong việc giàn xếp và cân bằng trong giai đoạn phát triển này, bạn trẻ ấy sẽ tìm thấy ý nghĩa trung thành với hình ảnh chân dung mình đã kiến tạo từ sự tổng hợp lành mạnh giữa bản thân và những yêu cầu trong cuộc sống. Từ đó các cá nhân này sẽ có khả năng sống hòa nhập, bằng lòng với những tiêu chuẩn trong cuộc sống; mặc dù có lúc họ vẫn có những điều chưa hoàn thiện, chưa nhất quán, và cả những lần thiếu sót. Họ là những người yêu mến cộng đồng của mình, muốn tạo ra những nét đáng yêu cho cộng đồng của mình. Nói chung đây là cảm giác mình hội nhập vào một cộng đồng và yêu mến cộng đồng ấy.
– Giai đoạn sáu: khi một cá nhân phát triển đến giai đoạn này mà không gặp phải bất cứ trở ngại nào, họ đã bắt đầu chính thức bước vào thế giới người lớn. Giai đoạn này kéo dài từ tuổi 18 đến 30 tuổi. Ở độ tuổi này các bạn người lớn không có những phát triển chung như thời bé, nghĩa là mỗi người có một cách phát triển khác nhau. Đây là giai đoạn mà tiêu chuẩn và nhu cầu đi tìm bạn tình của một cá nhân xem ra rất khác biệt.
Sự thân mật gần gũi: là khả năng có thể gần gũi người khác, như người bạn tình, người bạn thân, và những quan hệ người với người khác trong xã hội. Vì đã có một khái niệm định hình khá rõ về bản thân nên cá nhân không còn sợ mình đi lạc nữa. Tuy nhiên vẫn có một số người chưa phát triển ở giai đoạn này thường có vẻ sợ những ràng buộc trách nhiệm, đây là một trạng thái lo lắng không định hình mà một kết quả thường thấy là các cá nhân cứ chần chừ lưỡng lự, tránh né, lần khấn. Họ thường tìm cớ thoái thác, né tránh trách nhiệm và cơ hội nhập cuộc với đời sống tình cảm.
Vì không còn phải thể hiện hay chứng minh mình là ai, người ở giai đoạn này có khuynh hướng đi tìm người bạn đời của mình dựa trên những tiêu chuẩn thỏa thuận nhất định nào đó. Đây là quá trình kết hợp hai cái tôi để tạo thành một quan hệ lớn hơn chính bản thân của hai người họ.
Nhiều người trẻ trong xã hội văn minh hôm nay đã phải đối diện và gặp rất nhiều những khó khăn trước mặt vì xu hướng cuộc sống càng lúc càng khép kín nên nhiều bạn trẻ đã trải qua những kinh nghiệm khó khăn trong việc thiết lập những mối quan hệ. Vì nhu cầu công việc và vì nhiều lý do xã hội khác, chúng ta đã thấy nhiều người trẻ liên tục có những kế hoạch năm năm hoãn lại.
Những làng thôn nông nghiệp, khu vực quê mùa yên bình ngày nào cha ông chúng ta vẫn gắn bó với người làng kẻ nước đã dần dần thu hẹp lại. Cuộc sống càng ngày càng công nghiệp hóa và lối sống công nghiệp đã khiến cho nhiều người mất đi cơ hội tạo dựng một cuộc sống lứa đôi. Một mô thức được thay thế là sống vội, sống tạm bợ và sống thiếu tập trung lâu dài. Chính mô thức này đã khiến con người càng lưỡng lự rụt rè hơn.
Một trở ngại trong thời gian này, với một số cá nhân là tình trạng hay thay đổi bạn tình, hoặc quá dễ dàng trong việc thân mật, và thường không có một quan hệ bền chặt sâu lắng, họ sống buông thả và quan hệ bừa bãi. Và đây là một thái cực không lành mạnh, tổn thương đến uy tín bản thân và tình cảm của người khác.
Một thái cực khác đối nghịch là thói quen xa lánh co cụm. Đây là xu hướng tránh né và đóng cửa cõi lòng của mình lại với tình yêu, tình bạn, và cả với cộng đồng, ở họ thường rơi vào nhiều cung bậc cảm xúc như sợ hãi, lo lắng, không an tâm, và có thể căm ghét những mối quan hệ giữa con người với nhau.
Nếu một cá nhân dung hòa và xứ lý tốt giai đoạn này, cá nhân ấy sẽ tìm thấy trạng thái tâm lý lành mạnh và đây sẽ là nền tảng của cuộc sống tình yêu lứa đôi sau này. Theo Erikson, tình yêu được định nghĩa như là khả năng dẹp bỏ qua một bên những khác biệt và những khó khăn để tìm đến với một người khác qua sự tận hiến cho nhau. Theo ông đây là trạng thái tình cảm tìm thấy trong tình yêu, tình bạn, tình đồng chí, đồng nghiệp và những quan hệ con người khác.
– Giai đoạn bảy: là giai đoạn nằm giữa của đời sống người trưởng thành. Thật khó để xác định một độ tuổi nhất định cho giai đoạn này, nhưng theo Erikson thường đây là độ tuổi một cá nhân có quyết định sinh con và nuôi con. Tùy theo từng điều kiện xã hội mà độ tuổi có thể thay đổi từ năm 20 tuổi và kéo đến độ tuổi 50 tuổi. Đây là thời điểm một cá nhân sẽ cố gắng đầu tư vào cân bằng, nhằm tạo ra tích lũy hoặc nếu không họ sẽ rơi vào tình trạng tù đọng.
Tạo ra tích lũy: là trạng thái muốn được sống có ý nghĩa và duy trì được đời sống tình cảm xã hội của mình đến với tương lai, với trọng tâm là những gì một cá nhân khao khát sẽ để lại cho thế hệ sau. Đây là cảm xúc đóng góp cho thế hệ sau. Đời sống tình cảm bây giờ đã trưởng thành và sâu lắng hơn những gần gũi nhục thể như trước đó; vốn đòi hỏi phải có sự đáp trả hỗ tương từ hai phía.
Với khả năng tạo ra tích lũy, một cá nhân sẽ ứng xử rộng rãi hơn và thường không đòi phải có những đáp trả cân xứng cho những gì họ đã bỏ ra. Ít ra thì là nhu cầu này thường không bức xúc lắm. Tuy nhiên vẫn có một số cha mẹ có vẻ muốn nhờ cậy vào con cái. Một số người thậm chí còn muốn tính sổ với con cái về những gì họ đầu tư trước đó.
Tuy nhiên các cá nhân không chỉ đầu tư vào thế hệ sau (có liên hệ máu thịt với cá nhân đó), mà họ có nhiều kênh giao lưu khác để tạo ra tích lũy. Nhiều người bắt đầu chuyển tải năng lượng của mình cho thế hệ sau trong xã hội như họ sẽ viết sách, dạy học, sáng tạo, nghiên cứu, hoạt động từ thiện… nói chung là họ thường muốn đóng một vai trò bận rộn và muốn được giúp đỡ người khác.
Tình trạng tù đọng: là trạng thái chỉ nghĩ về mình, không quan tâm đến người khác. Họ là người không muốn đóng góp khả năng của mình cho xã hội. Với một số đông muốn được đóng góp nhưng với một số đông khác thì họ không muốn mình bận rộn, dẫn đến trạng thái lãng quên chính mình. Với họ, khái niệm ý nghĩa cuộc sống không được đề cao và coi nặng.
Vào giai đoạn này nhiều người rơi vào khủng hoảng nửa đời người khi nhiều người bắt đầu dừng lại để nhìn và đánh giá mục đích làm người của mình: Tôi đã sống và làm việc, tất cả là vì cái gì? Vì đây là câu hỏi về mục đích cuộc đời nên họ thường tập trung vào ý nghĩa:
Tôi đã làm được cái gì?
Rất khác với câu:
Tôi đã làm gì cho ai?
Nhiều người bắt đầu giật mình vì họ đã không có thời gian để thực hiện những điều mà họ có hoài bão khát khao từ những ngày còn trẻ. Nhiều người phản ứng bằng cách thay đổi hẳn lối sống như một van xả. Tuy nhiên càng chạy trốn họ càng cảm thấy vô nghĩa vì những kênh van xả thật ra không đáp ứng được những gì họ thật sự cần. Nếu một cá nhân cảm thấy hài lòng với những gì mình đang làm, phần còn lại của cuộc đời họ sẽ là những chuỗi ngày yên bình, êm đềm và thong thả.
– Giai đoạn tám: đây là một giai đoạn tế nhị của giai đoạn cuối tuổi trưởng thành, sau khi con người bắt đầu về hưu, con cái đã khôn lớn, dọn ra sống riêng và đã lập gia đình. Giai đoạn này thường xảy ra vào khoảng tuổi 60 tuổi. Nhiều người có tuổi cho rằng tuổi về già thật ra mới chỉ là sự bắt đầu. Erikson đã thổi vào đời sống của người già một quan điểm rất quan trọng và việc xác định rằng về mặt tâm lý con người không bao giờ ngừng phát triển.
Ở giai đoạn này, nhiệm vụ của một cá nhân là phát triển cái tôi nhất quán, nếu không họ sẽ rơi vào tình trạng buồn khổ chán chường. Đây là giai đoạn khi những liên hệ với môi trường xã hội bắt đầu được cắt đứt hoặc giảm hẳn lại. Nhiều người thường có những đánh giá về những việc làm có ích mà họ đã cống hiến. Nhiều người cảm thấy hụt hẫng vì những đóng góp của họ có vẻ đã không còn ai cần đến nữa.
Nhiều người có cảm giác cơ thể của mình không còn khỏe mạnh và nhanh nhẹn như ngày xưa nữa. Phụ nữ trải qua giai đoạn mãn kinh và nam giới cảm thấy đời sống sinh lý của mình đã không còn sung mãn như thời trẻ nữa. Cộng thêm nữa là những thứ bệnh tật thường xuyên đến với người già như thấp khớp, bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, tuyến tiền liệt, tử cung, phổi, gan, thận… Bên cạnh đó cái chết càng ngày càng đến gần hơn là một mối ưu tư khó tránh khỏi khi bạn bè và người thân lần lượt ra đi. Nhất là sự từ giã cõi đời của người bạn đời. Cảm giác rồi sẽ đến lượt mình ra đi là một trăn trở rất thực.
Để đối diện với những nỗi đau lấn cấn nhức nhối này, nhiều người già vùi mình trong những tháng ngày của quá khứ. Ít nhất đó là những tháng ngày tốt đẹp hơn. Một số cứ hành hạ mình về những thất bại thời trẻ, những lỗi lầm của tuổi thanh xuân, những quyết định sai lầm và giờ đây họ hối hận. Họ cảm thấy cay đắng cho tuổi già. Họ cảm thấy bất lực vì không còn thời gian và sức lực để thay đổi về những điều đã làm. Vì thế có nhiều người rơi vào trầm cảm, cay đắng, hận tâm, nghi hoặc, hằn học, và rơi vào bỏ mặc nhiệm vụ chăm sóc chính mình. Đời sống của họ hóa ra lẩn thẩn một cách giả tạo, đáng lẽ không nên có.
Cái tôi nhất quán: có nghĩa là những cảm xúc mình đã sống trọn vẹn cả một đời cho đến ngày mình nằm xuống. Đây là não trạng một cá nhân bằng lòng với tất cả những diễn biến cuộc đời xảy ra trong quá khứ như: những chọn lựa, những quyết định, hướng đi và những cố gắng. Nhìn chung là họ bằng lòng với chính mình, ít nhất là cho đến thời điểm hiện tại trong lúc họ đang đánh giá mình. Tất nhiên ai trong chúng ta cũng có những lần sai phạm. Có người phạm ít lỗi lầm, có kẻ phạm nhiều điều sai sót. Tuy nhiên, phải chăng chính chúng ta vẫn không muốn cuộc đời quá phẳng lặng. Đó chính là những điều mâu thuẫn của con người.
Những khó khăn gặp phải trong giai đoạn phát triển này dẫn đến não thức tự phụ. Đây là trạng thái khi một cá nhân cho rằng cái tôi nhất quán cứ bị chất vấn khi về tuổi già. Xu hướng bệnh hoạn có thể xảy ra khi người già cảm thấy căm ghét cuộc dời, theo Erikson đó là thái độ hằn học đối với cuộc sống của chính mình và cả đời sống của người khác.
Một số người tiếp cận với cái chết mà không hề cảm thấy sợ hãi, theo Erikson thì đấy là trạng thái khôn ngoan. Erikson cho rằng người già không sợ chết sẽ là một món quà đẹp họ giành cho con cháu của họ. Ông cho rằng con cháu sẽ mến yêu cuộc sống khi người già không sợ chết. Erikson cho rằng không phải ai cũng có cái may mắn khôn ngoan để tiếp cận cái chết mà không sợ hãi. Và điều này không bị ảnh hưởng bởi điều kiện xã hội, vì theo C. George Boeree (2006) thì ngay cả những người bình thường nhất vẫn có những thái độ rất bình thản khi đứng trước cái chết.
8. Thảo luận
Có thể nói Erick Erikson là một trong những người đã mạnh dạn trong việc thiết kế một thuyết phát triển nhân cách bao gồm những bước phát triển. Nhiều người không thích lắm chuyện chặt ra thành từng khúc nhỏ về sự phát triển của con người như thế. Họ nhắm đến những khoảng gối lên nhau hoặc là một sự chuyển tiếp dần dần. Họ muốn nhìn thấy những giai đoạn chuyển tiếp kế tiếp liên tục thay vì những thời kỳ độc lập.
Tuy nhiên có những giai đoạn phát triển nơi con người mà chúng ta nhận ra thật rõ ràng, nhất là khi những phát triển này được điều khiển bởi sinh học. Chẳng hạn như tuổi dậy thì nhất định sẽ phải đến khi một em bé đạt một độ tuổi nhất định; đặt giả thiết là em sẽ không bị chết vì tai nạn hoặc mắc những căn bệnh bẩm sinh. Những thay đổi qua các bước phát triển này có thể nhận ra một cách dễ dàng. Vì thế việc kéo giãn các bước phát triển (được điều khiển bởi sinh học) cho đều với những bước phát triển tâm lý sẽ có những chỗ không thể ăn nhịp đồng bộ được:
Tất nhiên khi áp dụng 8 giai đoạn phát triển của Erikson lên bức tranh văn hóa xã hội, người ta sẽ nhận ra có những thay đổi vì khoảng cách thời gian ở những nền văn hóa có sự khác nhau. Nhiều nơi trẻ em được 6 tháng tuổi đã cai sữa trong khi nhiều chỗ phải hơn 5 năm. Có nơi 60 tuổi người ta đã về hưu, trong khi ở nhiều nơi số tuổi có thể cao hơn. Có nơi người ta không cần tập cho trẻ con đi vệ sinh mà chỉ cần thả em bé đi ra ngoài vườn là xong. Nhiều nền văn hóa có thói quen để trẻ em lập gia đình sớm (tảo hôn ở nhiều nền văn hóa phát triển, việc quyết định sống một đời sống độc thân là một chọn lựa tương đối phổ thông, trong khi đó tại một số xã hội thì đây là một điều không được cổ xúy.
Một điều có thể nhận ra khá rõ là thuyết 8 bước của Erikson đã cung cấp một khung sườn cơ bản để chúng ta có thể thảo luận kỹ hơn, nhất là ta có thể sử dụng nó để đối chiếu với các nền văn hóa cùng thời theo tuyến ngang, và với các nền văn hóa khác thời gian (tuyến dọc). Vì thế thuyết của ông ngoài tính áp dụng vào tâm lý còn có những tính năng áp dụng vào các ngành khoa học xã hội khác. Nhiều người cũng công nhận rằng thuyết 8 bước của ông đã áp dụng được với nhiều nền văn hoá khác nhau, khẳng định được tính thực tiễn của học thuyết này. Và đấy là một trong những phẩm chất cần thiết của một học thuyết: Tính áp dụng đối với nhiều nền văn hóa khác nhau.
Ngoài ra học thuyết của Erikson còn cung cấp cho chúng ta những giải trình chưa được khám phá nơi trẻ em, chẳng hạn như nếu chúng ta đem 8 giai đoạn phát triển của học thuyết ra làm hai phần (mỗi phần gồm 4 giai đoạn), ta sẽ nhận ra ngày đời một con người có hai phần cơ bản rõ rệt: giai đoạn phát triển của tuổi thơ và giai đoạn phát triển của người lớn.
Trong nửa đầu tiên của giai đoạn phát triển trẻ thơ: vào giai đoạn 1 trẻ tiếp cận thế giới chỉ có cha mẹ và anh em (đó là điều bình thường). Trong giai đoạn 2 trẻ bắt đầu khám phá (tôi có thể làm được gì?). Giai đoạn 3, trước khi trẻ đi học (tôi có thể tính toán được cái gì?). Giai đoạn 4, khi trẻ đi học (tôi có thể hoàn thành được các mà tôi đã tính toán hay không?). Trong bốn giai đoạn phát triển này, trẻ trang bị cho mình những khả năng cần thiết để chuẩn bị cho những đòi hỏi căn bản cao hơn sau này.
Ở nửa thứ hai của giai đoạn phát triển là thời gian người lớn: vào giai đoạn 5, khi cá nhân vào tuổi dậy thì có thể nhận ra đời sống không có nhiều khám phá (cũng bình thường thôi). Vào giai đoạn 6, khi những bạn trẻ bước vào giai đoạn tìm bạn tình hay để xây dựng quan hệ, anh ta sẽ phải có não trạng (tôi có thể làm được). Ở giai đoạn 7, một người sẽ đầu tư tình cảm vào thế hệ sau (tôi có thể tính toán). Vào giai đoạn 8, khi đối diện với phần cuối cuộc đời và với cái chết, nhiều người sẽ trở lại với câu nói (tôi có thể hoàn thành việc này).
Với những đóng góp của mình cho kho tàng tâm lý nhân loại, Erick Erikson xứng đáng được coi là một trong những nhà tâm lý đã cung cấp cho chúng ta có một cái nhìn tương đối toàn diện về sự phát triển tâm lý cuộc đời của một con người. Những giải thích của ông về nhân cách con người là một trong những tác phẩm đẹp trong viện bảo tàng tâm lý của nhân loại chúng ta.
Tác giả: Nguyễn Thơ Sinh