Chân lý tương đối là những sự
thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là: sáng đối tối,
lạnh đối nóng, xấu đối tốt, thiện đối ác, khổ đối vui, động đối tịnh, sinh diệt
đối vô sinh...Còn sinh hoạt trong tương đối thì, có xấu phải có tốt, có thiện
phải có ác, có khổ phải có vui..., chúng ta không thể chối cãi sự thật ấy được.
Chỗ khôn ngoan của chúng ta là, khéo lợi dụng cái này đối trị cái khác, để tiến
lên đúng nguyện vọng của mình.
Như lương y biết bệnh biết thuốc,
khéo dùng thuốc trị lành bệnh cho người. Phật pháp là những phương thuốc trị
lành bệnh cho chúng sinh, nên gọi Phật là Ông vua thầy thuốc (Vô thượng y
vương). Ở đây, chúng ta chỉ đơn cử vài lối đối trị để làm sáng tỏ lẽ này. Sáng đối tối. Chúng ta biết tối không phải tự
nó tối, mà do nhân duyên thiếu ánh sáng. Nếu ta khéo tạo điều kiện - đèn dầu,
đuốc, đèn điện...- cho nó ánh sáng thì bóng tối tự mất. Ngược lại, muốn có bóng
tối cũng như thế. Đây là cái tối, sáng của hiện tượng bên ngoài. Đến cái tối,
sáng tinh thần bên trong của chúng ta cũng có nhân duyên. Nhân thiếu học, thiếu
đọc sách khiến ta tối dốt. Dùng ánh sáng học tập đọc sách... thì cái tối dốt
dần dần tiêu diệt. Nóng đối lạnh. Chúng ta nhân chạm khí lạnh, gió lạnh, nước
lạnh... nên phát lạnh run. Biết thế, chúng ta phải tạo điều kiện cho có hơi
nóng để đối trị, như đốt lửa hơ, lò sưởi ấm, mền bông trùm...
Ngược lại, Khổ đối vui. Khổ có
nhiều loại: khổ do đói rét, khổ do bệnh tật, khổ do vô minh phiền não... Nếu
khổ do đói rét, chúng ta phải nỗ lực tạo điều kiện cho có ăn có mặc, tức là lấy
cái vui no ấm trị cái khổ đói rét. Nếu khổ vì bệnh tật, chúng ta phải dùng
thuốc thang điều trị, lấy cái vui khỏe mạnh trị cái khổ bệnh tật. Nếu khổ do vô
minh phiền não, chúng ta phải lấy chánh pháp của Phật trị nó. Vô minh phiền não
tức là si tham sân. Si mê là vô minh, tham sân là phiền não. Bệnh si mê, chúng ta dùng trí tuệ điều trị.
Tức là dùng pháp “quán giới phân biệt” hay “quán nhân duyên”.
Bởi chúng ta lười biếng không
chịu phân tích quán sát nên tâm trí mờ tối. Phân tích nội tâm tự thân và ngoại
cảnh có chia từng phần từng giới hạn, gọi là quán giới phân biệt. Chính sự chia
chẻ quán sát ấy, khiến chúng ta thấy rõ thân tâm này không thật, trí tuệ do đó
dần dần phát sinh. Hoặc dùng quán nhân duyên, khéo khảo sát như phần “duyên sinh”
trong mục Chân lý phổ biến ở trước.
Bệnh tham lam, cần phải tra xét
coi tham thuộc loại nào trong năm thứ tham: tham tiền của, tham sắc đẹp, tham
danh vọng, tham ăn uống, tham ngủ nghỉ. Tham tiền của thì dùng bố thí trị. Bởi
vì tham thì muốn gom góp gìn giữ, mà bố thí thì ban cho, cứu giúp chia sớt.
Chính của mình còn mang ra cứu giúp chia sớt kẻ khác, huống là của họ mà mình
muốn gom góp về, thật vô lý. Do thật tâm bố thí thì bệnh tham tiền của từ từ
lành hẳn. Tham sắc đẹp và ăn uống phải dùng pháp “quán bất tịnh” điều trị.
Bất tịnh là bẩn thỉu nhơ nhớp.
Xét nơi thân mình từ trong đến ngoài toàn trữ những đồ nhơ nhớp, như cái bô đậy
kín, nếu nó hở rỉ ở đâu sẽ nghe mùi hôi thối tràn ra đấy. Những thứ nước hoa,
mùi son phấn, đều là loại sơn vẽ khéo của cái bô. Nếu thật con người là sạch
sẽ, cần gì phải tô điểm. Các loại tô điểm ấy chẳng qua là, lối đánh lừa mắt mũi
kẻ khác mà thôi. Những thức ăn uống lúc còn bên ngoài dường như thơm ngon, song
khi qua khỏi cổ, sẽ biến thành những đồ bất tịnh. Thường dùng lối quán sát thân
nhơ nhớp như thế, sẽ trị lành bệnh tham sắc đẹp và ăn uống.
Tham danh vọng và ngủ nghỉ, nên
dùng pháp “quán vô thường” điều trị. Vô thường là chỉ cho sự đời chợt còn chợt
mất không bền bỉ lâu dài. Danh vọng được đó rồi mất đó, như sương đầu ngọn cỏ,
như lằn điện chớp. Thường nghĩ xét như thế thì còn lòng nào đeo đuổi danh vọng.
Đời người mỏng manh sớm còn tối mất, lúc còn khoẻ mạnh còn hoạt động, chúng ta
phải quí tiếc thời gian, nỗ lực làm lợi ích cho mình cho người, đừng để một đời
trôi qua vô ích. Thấy rõ như vậy thì, đâu cam giết chết thì giờ trong cái ngủ
nghỉ.
Sân hận dùng pháp “quán từ bi”
hạnh “nhẫn nhục” và “hỉ xả”, trị nó. Sân là nóng giận, hận là hờn phiền. Nóng
giận muốn la rầy đánh đập cho đã cơn giận, khiến người phải đau khổ. Bởi vì khi
giận thì không thương, lúc thương thì không giận. Từ bi là hằng đem lòng thương
chan rải khắp mọi người, xem sự vui khổ của người như sự vui khổ của chính bản
thân mình. Thương người như mình, còn lòng nào hại người đau khổ. Tay trái lỡ đập tay phải đau điếng, tay phải cam nhận
chịu không đập lại, vì biết cùng một thân mình.
Lòng thương xem người như mình,
dù bị người làm đau khổ mấy cũng nhịn chịu, không nóng giận hại lại. Nhẫn nhục
là nhịn chịu. Khi cơn nóng nổi lên cố gắng dằn ép xuống, để giữ bình tĩnh và
nhịn chịu cho qua. Bởi đè ép nên chỉ là phương tiện tạm thời không thể hết gốc
nóng giận. Chỉ có quán từ bi thành công thì gốc nóng giận mới tiêu. Hờn phiền
là lòng còn ôm ấp những mối bất bình. Hỉ xả là vui vẻ buông bỏ hết, khiến lòng
nhẹ nhàng thơ thới. Ôm lòng hờn phiền là gốc bệnh hoạn khổ đau, vui vẻ buông bỏ
hết thì lòng vui tươi an ổn, bệnh hoạn khổ đau không có lý do gì tồn tại.
Khổ từ ngoại cảnh, khổ nơi bản
thân, khổ của nội tâm, chúng ta khéo lấy sự an vui đối trị. Vui no ấm, vui khoẻ
mạnh, vui sáng suốt, vui hết tham lam, vui không nóng giận... trị lành các bệnh
khổ ở trên. Khổ là thành quả xấu do nhân
duyên xấu tạo nên. Khổ về vật chất và thể xác, do nhân duyên thiếu thốn hoặc
phản nghịch của vật chất gây nên. Khổ về tinh thần, do nhân duyên si, tham,
sân... chủ động. Si là không biết đúng lẽ thật nên sinh tham, tham không được
như ý nên nổi sân. Ba thứ này là nhân chánh tạo nên quả khổ. Quả khổ là Khổ đế,
nhân duyên tạo nên nó là Tập đế. Biết rõ nguyên nhân và Động đối tịnh. Động là xao xuyến rối loạn,
tịnh là yên ổn lặng lẽ.
Ở đây riêng giải thích về cách
đối trị của tâm thức. Tâm thức chúng ta xao xuyến rối loạn khiến suy yếu mờ
tối. Muốn dừng sự xao xuyến rối loạn này, chúng ta phải dùng sự yên ổn lặng lẽ
đối trị. Song chúng ta phải biết rõ do nhân duyên gì khiến tâm thức xao xuyến
rối loạn. Bởi tâm thức chạy theo sự được mất tiền của, được mất sắc đẹp, được
mất danh vọng, được mất ăn uống, được mất ngủ nghỉ, mà thành xao xuyến rối
loạn. Muốn dừng sự chạy theo ấy, Phật pháp dạy chúng ta trước tiên phải giữ
giới. Giới là hàng rào ngăn chận tâm thức chạy theo ngũ dục. Kế dùng phương
pháp thiền quán làm sợi dây cột nó lại. Ngoài có hàng rào giới luật, trong có
sợi dây thiền quán, con khỉ tâm thức sẽ thúc thủ ngồi yên, dần dần ngủ lịm.
Giới có năm giới, mười giới v.v... nhằm ngăn chận mọi sự đuổi theo ngoại cảnh
của tâm thức.
Thiền quán có sổ tức quán, từ bi
quán, bất tịnh quán, nhân duyên quán..., cốt cột chặt tâm thức lại một chỗ, bắt
buộc nó phải yên lặng. Đây là phương pháp lấy tịnh trị động. Sinh diệt đối vô sinh.
Cặp đối này cũng gọi là sinh tử đối Niết-bàn. Sinh diệt là nói chung cho muôn
loài, sinh tử chỉ nói riêng cho loài động vật. Sinh tử đối Niết-bàn, lại khu
biệt hoàn toàn vào người Phật tử. Muôn loài hằng chịu sinh diệt, mà không biết
lẽ vô sinh, để dùng đối trị. Đức Phật sau khi giác ngộ đã thấy rõ lẽ ấy, nên
dạy đệ tử lấy vô sinh đối trị sinh diệt hay sinh tử. Vô sinh là nghĩa chánh của
Niết-bàn. Dòng tâm thức biến động là nguồn gốc sinh tử. Tâm thức biến động bởi
do luyến ái bản thân và ngoại cảnh. Nếu biết rõ cảnh vật vô thường, thân người
vô ngã thì dòng luyến ái sẽ khô kiệt, tâm thức sẽ dừng lặng. Tâm thức dừng lặng
thì nhân duyên sinh tử dứt bặt, đó là nghĩa vô sinh. Ví như gió dừng thì sóng
lặng, mặt biển sẽ bằng phẳng an lành.
Luyến ái là động cơ thúc đẩy tâm
thức sinh diệt, còn luyến ái thì sinh tử không bao giờ dứt. Chúng ta yêu mến
một người, người ấy vắng đi thì tìm cách gặp lại, hoặc nơi này hay nơi khác.
Lòng yêu mến thúc giục chúng ta tìm gặp nhau mãi mãi. Chỉ khi lòng yêu mến cạn
thì, sự tìm kiếm mới dừng. Trong pháp Mười hai nhân duyên, Ái là động cơ thúc
đẩy có Thủ, Hữu rồi Sinh Lão Tử ở đời sau. Ái dứt thì Thủ Hữu không còn, làm gì
có Sinh Lão Tử tiếp nối. Ái là luồng gió mạnh thổi cuốn sóng tâm thức nổi dậy.
Gió Ái dừng thì sóng tâm thức cũng theo đó mà lặng. Bức tường chặn gió Ái không
gì hơn quán các pháp vô thường, quán thân tâm vô ngã. Bờ sông bên này là sinh
tử, bờ sông bên kia là Niết-bàn. Thấy rõ như thế, hành giả cấp bách kết bè vượt
dòng sông qua bờ bên kia, qua rồi từ biệt vĩnh viễn bờ sông bên này. Đó là quan
niệm chán sinh tử cầu Niết-bàn của hàng Nhị thừa, vì còn thấy sự đối đãi là
chân thật. Cũng dùng phương pháp đối trị này, song Bồ-tát chỉ thấy là phương
tiện tạm thời, nên không mắc kẹt ưa chán.
Chân lý tương đối bàng bạc khắp
thế gian. Bất luận nhân loại vật loại ngôn ngữ tư tưởng... phát xuất đều nằm
gọn trong phạm vi của nó. Chúng ta khôn khéo ứng dụng tài tình những phản đề,
để tiêu diệt chúng theo đúng đường lối vươn lên của chúng ta. Không biết dùng,
hoặc dùng sai phương pháp đối trị, mà muốn tiêu diệt chúng, không bao giờ thành
công. Thầy thuốc hay, là người khéo biết bệnh biết thuốc và dùng thuốc trị liệu
đúng phương pháp. Vì thế, Phật pháp gọi là “phương pháp trị liệu”.
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Nguồn: chualienhoa.net