Định kiến xã hội

Định kiến là một trong những hiện tượng tâm lý xã hội đặc trưng của nhóm, phản ánh đời sống tâm lý phức tạp trong mối quan hệ ứng xử và giao tiếp của con người. Ở bất kỳ đâu, trong bất kỳ mối tương tác nào ta cũng có thể bắt gặp định kiến. Định kiến giữa cá nhân này với cá nhân khác, giữa nhóm người này với nhóm người khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác...

Sự xuất hiên định kiến sẽ làm tăng thêm mối quan hệ không thân thiện giữa các cá nhân với nhau, giữa các nhóm với nhau, giữa các dân tộc với nhau,...Đỉnh cao của sự phát triển định kiến là lòng hận thù và rất có nguy cơ dẫn tới mâu thuẫn giữa các cá nhân, giữa các nhóm, giữa các dân tộc, xung đột chủng tộc và chiến tranh có thể xảy ra.

Trong cuộc sống hàng ngày, định kiến cũng thường xuyên xuất hiện. Chẳng hạn, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn là hiện tượng phổ biến trong quan niệm của những người dân Việt Nam. Hơn thế nữa, một loạt các hiện tượng xã hội đang đặt ra mà chúng ta cần phải giải quyết, như những định kiến nặng nề đối với những bệnh nhân mắc căn bệnh hiểm nghèo HIV/AIDS, những người sau cai nghiện ma tuý, những người mãn hạn tù trở về với gia đình, với cộng đồng...

Vì vậy, việc nghiên cứu định kiến và vấn đề làm thế nào để giảm tải định kiến là một vấn đề cần quan tâm chú ý trong các nghiên cứu tâm lý học xã hội hiện nay. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin đề cập đến một số quan niệm khác nhau về định kiến và nguồn gốc nảy sinh định kiến.

1. Định kiến là gì?

Theo J.P Chaplin định kiến là thái độ tích cực hoặc tiêu cực được hình thành trên cơ sở của các yếu tố cảm xúc, là niềm tin một cách không thiện cảm làm cho chủ thể có cách nghĩ hoặc cách ứng xử tương tự đối với người khác.

Theo Kramer (1949) và Mann (1959) định kiến là một thành tố của nhận thức, tình cảm, hành vi. Nó là biểu hiện của trí tuệ, nó khơi dậy tình cảm hoặc xúc cảm của con người, là sự thực thi những suy nghĩ của mình về người khác bằng những hành vi cụ thể.

Fischer cho rằng định kiến có thể được định nghĩa như những thái độ của cá nhân bao hàm sự đánh giá một chiều. Sự đánh giá đó thường là tiêu cực đối với cá nhân hoặc nhóm tuỳ theo sự quy thuộc xã hội riêng của họ. Nói cách khác định kiến là một loại phân biệt đối xử. Định kiến bao gồm hai thành tố chính đó là nhận thức và ứng xử.

Quan niệm khác lại cho rằng định kiến là những thái độ tiêu cực đối với một nhóm người hay một thành viên của nhóm. Nó bao gồm sự đánh giá một cách vội vàng về khách thể khi họ tiếp xúc. Định kiến có ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa các cá nhân, giữa các nhóm và giữa cá nhân với nhóm. Trong quan niệm này người ta cho rằng định kiến là sự kết hợp của ba yếu tố: 1.Sự tác động của các yếu tố cảm xúc (affects); 2.Xu hướng hành vi (behavior tendency); 3.Sự nhận thức của cá nhân (cognition). Người ta gọi đó là ABC của thái độ. Một người có định kiến trước hết không có cảm tình với khách thể, sau đó có sự tin tưởng một cách mù quáng vào cảm nhận đó và dẫn tới có khuynh hướng phân biệt đối xử.

Như vậy, tuy có rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này, nhưng suy cho đến cùng các tác giả đều có những nhìn nhận một cách cơ bản giống nhau ở một số điểm. Hầu hết họ đều muốn nhấn mạnh đến vấn đề nhận thức một cách thiếu căn cứ, thiếu cơ sở khoa học của cá nhân trước một cá nhân khác hay trước một sự kiện, một hiện tượng nào đó.

Trên cơ sở một số quan niệm trên có thể nêu ra định nghĩa định kiến xã hội như sau, định kiến xã hội là những thái độ tiêu cực được nảy sinh trên cơ sở của những cảm nhận không có cơ sở chắc chắn, những đặc điểm bề ngoài, những ấn tượng xấu ...về một cá nhân, về một nhóm người hay một cộng đồng người nào đó.

2. Nguồn gốc xã hội của định kiến

Định kiến bắt nguồn từ sự bất bình đẳng xã hội

Định kiến là một kiểu hợp lý hoá sự bất bình đẳng xã hội. Tại sao như vậy? Trong bất cứ xã hội nào cũng tồn tại những địa vị xã hội không ngang bằng. Địa vị xã hội không ngang bằng đó đã làm nảy sinh định kiến. Trong cấu trúc xã hội có tầng lớp chủ nô - nô lệ, địa chủ - người làm công... dưới con mắt của những người thuộc tầng lớp giàu có, những người nghèo khổ luôn bị coi là những kẻ lười biếng, thiếu hiểu biết...Một số tác giả cho rằng, trong xã hội có sự bất bình đẳng xã hội, định kiến đựợc sử dụng như một công cụ để chứng minh cho tính đúng đắn của người có tiền bạc và có thế lực.

Cách đây bốn thập kỷ, nhà xã hội học Helen Mayer Hacker (1951) đã phát biểu những người da đen và những người phụ nữ là những người thuộc tầng lớp dưới. Họ có trí thông minh thấp, bằng lòng với vai trò phụ thuộc. Người da đen phải ở những khu riêng biệt giành riêng cho họ, còn chỗ của những người phụ nữ là ở trong nhà, là ở chỗ bếp núc.

Ngày nay những quan điểm này đã thay đổi rất nhiều. Chẳng hạn trong chiến tranh thế giới lần thứ II, người Nhật được gọi là những kẻ ranh mãnh, quỷ quyệt, tàn ác... thì sau chiến tranh thế giới II và cho tới tận ngày nay họ lại được coi là những người thông minh, lanh lợi khiến cho mọi người trên toàn thế giới phải khâm phục bởi tinh thần học hỏi, tinh thần vượt khó và đặc biệt là lòng tự hào dân tộc của họ.

Định kiến xã hội bắt nguồn từ những biểu tượng xã hội.

Cuối năm 1947, nhà tâm lý học da đen Mamie Clack đã tiến hành một nghiên cứu khá thú vị về biểu tượng xã hội ở trẻ em da đen Mỹ. Ông đã nghiên cứu trên số lượng lớn trẻ em da đen từ 3 đến 7 tuổi. Nội dung thực nghiệm của ông như sau: Ông đưa ra hai loại búp bê da trắng và da đen. Ông yêu cầu các em trả lời các câu hỏi: "Búp bê nào xấu nhất? Búp bê nào xinh nhất? Búp bê nào đáng yêu? Búp bê nào ngoan? Búp bê nào em chọn làm bạn? Búp bê nào màu đen?..."

Kết quả thu được từ thực nghiệm này như sau: 90% số trẻ nhận dạng đúng màu của búp bê; Phần lớn số trẻ tham gia thực nghiệm đều thích chơi với búp bê màu trắng và cho rằng búp bê màu trắng tốt hơn búp bê màu đen, còn búp bê màu đen là xấu xí và độc ác; 2/3 trẻ em da đen bị các búp bê da trắng cuốn hút. Qua đó ông đã rút ra một kết luận rằng đây là một sự khinh miệt lạc hướng chống lại chính bản thân mình. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên chứng minh sự giảm giá trị hình ảnh bản thân như là hậu quả của sự phân biệt đối xử.

Xã hội hoá và sự xuất hiện định kiến.

Định kiến xuất hiện luôn gắn bó chặt chẽ với các hiện tượng xã hội hoá. Sự phát triển định kiến xã hội đi đôi với sự phát triển của các thái độ xã hội. Trước hết định kiến quy định bởi môi trường gia đình và đặc biệt khuôn mẫu do cha mẹ tạo ra lúc đầu có vai trò như một hiểu biết quan trọng nhất cho đứa trẻ. Thông qua cha mẹ và người lớn, đứa trẻ có xu hướng lặp lại những gì mà cha mẹ và người lớn đã dạy dỗ nó. Đứa trẻ học cách ứng xử xã hội bằng cách quan sát người khác và bắt chước họ.

Mối quan hệ này được Adormo và các cộng sự làm sáng tỏ năm 1950. Đầu tiên là sự nghiên cứu về chủ nghĩa bài Do Thái nhằm tìm hiểu xem có những kiểu cá nhân đặc biệt bài Do Thái hay không. Các tác giả đã nhận thấy rằng có một kiểu nhân cách độc đoán không chỉ là bài Do Thái, mà còn có biểu lộ ra là hằn thù và bài trừ tất cả những nhóm dân tộc thiểu số khác. Những nghiên cứu về nhân cách độc đoán đã cho phép xác định sự xuất hiện của định kiến được bắt nguồn từ những năm đầu của cuộc đời. Khi đó trẻ em học được ở người lớn những suy nghĩ, nhìn nhận và đánh giá những người xung quanh. Trong chừng mực nào đấy, có thể nói những gì cá nhân học được từ bố mẹ là những cơ sở cho sự đánh giá mang tính quyền uy. Các yếu tố tiếp thu được từ gia đình đó có xu hướng trở nên bền vững và được củng cố thêm trong quá trình xã hội hoá cá nhân.

3. Định kiến và một số vấn đề cần đặt ra

Một vấn đề cần được đặt ra ở đây là có thể thay đổi được định kiến hay không? Như trên chúng ta đã nhận định định kiến là một loại thái độ (thái độ tiêu cực). Thái độ là một yếu tố động, hoàn toàn có thể thay đổi được. Vì vậy định kiến cũng có thể thay đổi được. Tuy nhiên, định kiến bao gồm hệ thống những thái độ tương đối bền vững, cho nên việc thay đổi thái độ cũng là cả một quá trình. Chúng ta không thể mong muốn thay đổi định kiến một cách nhanh chóng mà phải tác động dần dần từng bước. Có thể nêu ra một số cách thức tác động nhằm thay đổi định kiến như sau:

1. Thay đổi cách thức giáo dục trẻ
2. Loại bỏ một số chuẩn mực không phù hợp
3. Khắc phục hiện tượng bất bình đẳng xã hội.
4. Thay đổi một số chính sách ở cấp vĩ mô.
5. Tuyên truyền giáo dục những kiến thức và hiểu biết đúng đắn cho đông đảo quần chúng nhân dân.

Lã Thu Thủy
Nguồn: tamly.com.vn
Previous Post
Next Post