Jiddu Krishnamurti |
Qua những buổi nói chuyện của
Krishnamurti, người ta cảm thấy thái độ của ông đối với tôn giáo có vẻ khắc
nghiệt, và điều này làm nhiều người sùng đạo buồn lòng; tuy nhiên, có người tìm
ra được những đoạn ông nói về điều bất khả tri, về điều vô lượng, về năng lực
phi thường từ hư vô, lại nghĩ ông là người duy linh, mê tín. Nói chung cả thái
độ theo tôn giáo lẫn chống tôn giáo tìm thấy ở Krishnamurti điều đáng trách.
Chúng ta thấy có nhiều nơi ngăn trở không cho Krishnamurti nói chuyện vì nghĩ
rằng ông bài xích tôn giáo, và lại có nơi ngăn trở ông vì cổ xúy tín ngưỡng
huyền hoặc hay thuyết giảng tư tưởng tiêu cực.
Như vậy không phải là điều đáng
tiếc lắm sao, khi mà chỉ vì sợ hãi một đóa hoa không hề quan tâm đến tôn giáo
cũng không quan tâm đến vô tôn giáo mà ngăn chặn không cho hoa tỏa hương? Không
phải là điều đáng tiếc lắm sao khi mà suy tưởng của Krishnamurti được đưa ra
xem xét nó có lợi hay có hại, trong khi khái niệm lợi hại không hề có trong suy
tưởng của ông. Có một điều người ta không thể chối bỏ được là lời nói
Krishnamurti xác thực quá mức tưởng tượng, thực đến nỗi không tìm đâu ra được
một sự thực thứ hai, nhưng khi nhìn quanh lại không tìm đâu có được sự thực như
vậy. Đó là một nghịch lý có lẽ sẽ bỏ ngõ đến tận vài trăm năm sau, như lời trăn
trối của Krishnamurti.
Theo chúng tôi, thật ra vấn đề
Krishnamurti quan tâm là tổ chức và định kiến. Tôn giáo mà ông khắc nghiệt phê
phán đều có hình thức tổ chức cao, và như thế đã biến thành bộ máy quản lý đầy
uy quyền. Krishnamurti nói rằng tổ chức càng chặt chẽ thì càng rời xa chân lý.
Như vậy không phải tôn giáo, mà chính tổ chức mới là điều gây trầm luân cho
tinh thần con người. Điểm thứ hai là định kiến, và điều này đã quá rõ, không
cần phải bàn đến nhiều khi hiểu rằng định kiến là sản phẩm chết cứng của tư
tưởng và làm tâm trí hoàn toàn mất đi tính sinh động của nó, làm tê liệt khả
năng khám phá điều mới lạ.
Những người lần đầu tiên đọc
Krishnamurti có thể có hai phản ứng: Hoặc là không chấp nhận hay không hiểu gì
cả, và do đó bài bác hay chối bỏ ông; hoặc là cảm thấy ngạc nhiên, phấn khích,
cảm thấy như mình mới vừa sinh ra trong một xứ sở thần kỳ chưa từng nghe nói
đến, và do đó tìm đọc ông trong suốt nhiều năm. Đối với người phản bác ông ngay
từ đầu thì chẳng có gì để nói thêm, bởi vì người ta sẽ xếp sách lại và quên
ngay cái tên Krishnamurti. Nhưng đối với người cảm thấy có sự phấn khích khá
mãnh liệt lúc đầu, sau nhiều năm đi vòng vo, lặn ngụp, vật vã trong những khái
niệm về thời gian, tư tưởng, sợ hãi, hiện thể, tự do, tĩnh lặng, thiền định… họ
thấy dường như mình quay lại điểm xuất phát ban đầu, dường như cuộc đời mình
không thay đổi gì cả, trái tim mình vẫn chai đá, tâm trí mình vẫn rối bời, và
nỗi đau khổ vẫn canh cánh bên lòng.
Krishnamurti đã chặn đứng tất cả
mọi sự giả vờ và tưởng tượng, vì thế mọi người không dám che giấu cái sự thật
lạnh lùng đang hiện hữu trong lòng là mình không hiểu gì cả. Krishnamurti đã chặn
đứng tất cả mọi ngõ ngách dẫn con người chạy trốn về cái lối mòn muôn thuở của
các tổ chức chân lý, và vì thế con người đã cùng đường bí lối. Krishnamurti đã
vô hiệu hóa mọi ngôn từ, mọi suy nghĩ, và con người cảm thấy bơ vơ tận cùng, cô
độc giữa dòng đời hung tàn cứ mãi lạnh lùng trôi. Phải chăng Krishnamurti đã
đòi hỏi quá sức con người, muốn mỗi người phải là một ông thánh, trong khi lạc
thú cuộc đời chờ chực lôi kéo người ta vào địa ngục lại giăng đầy khắp nơi?
Con người thèm khát chân lý, muốn
vươn đến chân lý, hạnh phúc, muốn thu đạt chân lý trong tay, nhưng Krishnamurti
lại bảo rằng chân lý giống như ngọn gió, không thể bắt lấy nó, không thể cầm
giữ nó trong nắm tay. Con người cần hy vọng, cần niềm tin, nhưng Krishnamurti
lại bảo hy vọng chỉ là ảo tưởng của một tâm trí cùn lụt chẳng biết phải làm gì
với hiện tại; còn niềm tin chỉ là sự ám thị hoang tưởng. Con người cần hoài
niệm về quá khứ, bảo tồn truyền thống, nhưng Krishnamurti lại bảo truyền thống
là ngục tù. Con người cần tư duy trong mọi lãnh vực, nhưng Krishnamurti lại bảo
suy nghĩ làm suy đồi mọi vẻ đẹp của cuộc sống. Con người cần người hướng dẫn,
giúp đỡ, cần được an ủi vỗ về, nhưng Krishnamurti lại từ chối mình làm nạng
chống cho bất cứ ai, và không thừa nhận bất cứ ai làm nạng chống cho con người.
Con người lo sợ, bất an nhưng
hình như Krishnamurti chỉ làm người ta hoảng sợ hơn, vì đã lấy đi tất cả phương
cách chạy trốn mà con người đã phát minh được. Con người lần khần, hẹn ngày mai
sẽ thay đổi, nhưng Krishnamurti lại bảo sẽ không bao giờ có chuyện dần dà, sự
thay đổi chỉ xảy ra ngay lập tức hoặc là không bao giờ. Con người chạy tìm tình
yêu, thiền định, nhưng Krishnamurti lại bảo tất cả mọi hình thức thiền định
hiện nay chỉ làm tâm trí con người đờ đẫn, trì trệ, và tình yêu theo kiểu hiện
nay chỉ là sự dối gạt, chỉ là các thứ tương tự tình yêu nhưng không phải là
tình yêu, vì con người hiện nay chỉ biết bảo toàn cho cái tôi của mình.
Krishnamurti đã đẩy tư duy của
con người đến mé bờ tuyệt vọng, nhưng ông cũng lấy luôn sự tuyệt vọng của con
người, khi bảo rằng tuyệt vọng, kỳ vọng, hy vọng chỉ là vọng, không có cái nào
là chân trong đó. Con người quẫn bách tìm đến lạc thú, sống buông thả, tìm đến
sự hung bạo, và Krishnamurti lại nói sự hung bạo đã đầy dẫy trong đời thường,
trong hành động hàng ngày, trong tâm trí con người, khỏi phải tìm đâu xa; còn
sống buông thả, tìm lạc thú chỉ là cách sống vớ vẩn. Và khi con người đã bị
Krishnamurti tước sạch mọi thứ, chẳng được chừa lại thứ gì, con người lại bắt
đầu hỏi “Vậy thì đường nào đến chân lý?”, thì Krishnamurti lại lạnh lùng trả
lời “Chân lý không có đường vào”, như ông đã từng nói từ những ngày đầu tiên
bắt đầu du thuyết, “Nó có ở đó cho ngài, hãy nhận lấy hoặc bỏ đi”.
Con người hỏi vậy phải làm gì,
Krishnamurti lại nói chẳng cần làm gì cả ngoài việc nhận ra và hiểu biết, chính
sự nhận ra đó đã là hành động tích cực rồi. “Chân lý không mang lại hy vọng, nó
chỉ mang lại sự hiểu biết”. Nhưng thật khó tưởng tượng được sống mà không cần
hy vọng hay chỉ cần hiểu biết là đã đủ cho cuộc sống này.
Bài nói chuyện cuối cùng của
Krishnamurti trên đời được ghi nhận tại Ấn Độ, vào đầu năm 1986, khoảng một
tháng trước khi ông chết, khi ấy ông chín mươi mốt tuổi. Ông nói, “chúng ta
phải bắt đầu từ cái chúng ta đang là bây giờ, không phải từ cái chúng ta đã là
trong quá khứ hay cái chúng ta sẽ là trong tương lai. Cái chúng ta sẽ là ở
tương lai là cái chúng ta đang là bây giờ (Krishnamurti, The Future is Now). Rõ
ràng thời gian là một trọng tâm mà Krishnamurti lặp đi lặp lại trong hầu hết
các buổi nói chuyện của mình, có lẽ chính vì thời gian là nỗi ám ảnh và là một
định mệnh của con người.
Con người trầm luân vì đã lỡ mang
trong định mệnh của mình thành tố thời gian, và để vượt qua sự trầm luân ấy
không còn cách nào khác hơn là phải vượt qua thời gian. Dĩ nhiên thời gian ở
đây là thời gian tâm lý, là sự chuyển dịch của tâm trí qua lại điểm cân bằng là
hiện tại. Đối với Krishnamurti quá khứ là cái đã chết rồi, nhưng không hề bị
chôn vùi, ký ức về nó vẫn còn đâu đó trong tâm trí bây giờ, và đó chính là ngục
tù của tâm trí. Con người không thay đổi được vì không muốn thay đổi, không
muốn đánh mất cái nhà tù quá thơ mộng, quá yên ổn của quá khứ. Thoát ra khỏi
nhà tù quá khứ, con người sẽ cảm thấy bơ vơ tận cùng, cảm thấy bản ngã mình bị
đánh rơi, bị lạc mất, không biết phải làm gì với sự thể ở hiện tại. Con người
cảm thấy mình không thể sống nổi nếu không có quá khứ.
Quá khứ ở đây không chỉ là những
kỷ niệm êm đềm hay ê chề, mà là toàn bộ truyền thống, văn hóa, nếp sống, tư
tưởng, tri thức đã có hàng ngàn năm. Dù có lý luận hay dở thế nào thì con người
cũng không muốn hay không thể tách rời ra với quá khứ, và do đó phải lệ thuộc
thời gian. Một con người không có quá khứ thì biết phải hành xử ra sao trong
hiện tại? Do vậy đa số vì sinh tồn sẽ quyết định con đường tuyển chọn, sẽ chọn
ra quá khứ nào hay để giữ lại, quá khứ nào tồi tệ phải bỏ đi, và như thế,
Krishnamurti nói, vẫn lệ thuộc thời gian. Ngay dù có lối sống bất chấp truyền
thống, bất chấp quá khứ, thì đó vẫn là một lối sống khuôn theo một ý tưởng, và
do vậy con người vẫn bị khuôn định trong thời gian.
Vì mọi hành động của con người
loay hoay trong cái rọ quá khứ, tức là trầm luân trong thời gian, con người trở
nên ngộp thở và bắt đầu tư duy để tìm ra lối thoát, bắt đầu dự kiến đến các mô
hình tương lai, trong đó có cả thiên đường, cực lạc, hay cái chết hư vô, nhưng
vô ích, Krishnamurti nói, vì tư duy, tư tưởng là thời gian, và do vậy nỗ lực
vượt thoát nỗi đau hiện tại để đi đến tương lai hạnh phúc vẫn là một ước mơ
thuộc thời gian. Cho nên từ lúc bắt đầu đến lúc chấm dứt, tâm trí con người
ngụp lặn trong thời gian, dùng tư duy là thời gian để bứt phá cái định mệnh
thời gian xuyên suốt từ quá khứ đến tương lai thì cũng giống như lấy mực bôi
mực, biết chừng nào mới hết bẩn.
Krishnamurti nói rằng suy nghĩ
không thể dừng được, vì bản chất của suy nghĩ là dịch chuyển, khi dừng lại thì
suy nghĩ sẽ chết. Suy nghĩ chết thì con người sẽ chết, vì hoạt động của con
người cần đến suy nghĩ. Nhưng có một cái có thể chấm dứt, đó là thời gian tâm
lý. Con người không muốn bỏ những kho tàng mà họ trân trọng trong quá khứ, cũng
không muốn bỏ những kỳ vọng, những ước mơ tươi đẹp về tương lai, con người
không muốn tay trắng, chẳng có gì cả và chẳng là gì cả trong đời, và vì thế họ
không chịu thay đổi. Con người đưa thân mình chống đỡ cả hai đầu quá khứ và
tương lai, và họ cam chịu ở lại với hiện trạng mà theo Krishnamurti là đầy lòng
tham lam, ganh tỵ, ghen tuông, mê tín, thích tôn thờ người khác, thích cai trị
người khác, sợ hãi, thù hận, hung tàn, và dĩ nhiên xen kẽ có những lạc thú mong
manh.
Mọi vấn đề của con người có thể
gói gọn trong hai chữ thời gian, là một khái niệm hết sức trừu tượng, co dãn,
biến hóa, và đôi khi mơ hồ đến mức chẳng ai buồn để ý. Nỗ lực là thời gian.
Mong cầu là thời gian. Thành tựu là thời gian. Rèn luyện là thời gian. Kiến
thức, tri thức là thời gian. Hứa hẹn, hy vọng, mơ ước là thời gian. Thiên
đường, cực lạc cũng là thời gian. Ý chí là thời gian. Lý tưởng là thời gian. Và
hạnh phúc, chân lý, tình yêu cũng đã bị ném tận cuối con đường thời gian.
Krishnamurti nói rằng con người
muốn mình chuyển hóa thì thời gian phải chấm dứt và chấm dứt ngay lập tức, và
phương cách để chấm dứt thời gian là thiền định, với điều kiện thiền định phải
là một tâm thái không thuộc thời gian tức là không nỗ lực, không cố gắng, không
tìm kiếm, không chọn lựa, không loại trừ. Điều này là dĩ nhiên vì nếu thiền
định thuộc thời gian thì nó không thể chấm dứt cái sản sinh ra nó là thời gian.
Nhưng nếu điều này là đúng thì việc chấm dứt thời gian tâm lý phải là trọng tâm
trong mọi suy tưởng, quan sát, xem xét, vì đây là mấu chốt của mọi vấn đề, bất
kể là vấn đề nào. Theo Krishnamurti, thiền định có thể phá vỡ cấu trúc kiên cố
của thời gian, nhưng tất cả không chỉ có thế, thời gian chấm dứt chỉ mới là một
tiền đề, nhưng đó là một tiền đề không phát sinh vấn đề.
JIDDU KRISHNAMURTI – MỘT CON
NGƯỜI KHÔNG CHÍNH KIẾN, KHÔNG TÍN NGƯỠNG, KHÔNG THUỘC TỔ CHỨC NÀO. SUY TƯỞNG
CỦA ÔNG MANG TÍNH ĐỘC ĐÁO, VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU, VÀ CÓ LẼ SẼ KHÔNG TÌM THẤY TRONG
VÀI TRĂM NĂM NỮA.
Mộc Nhiên
Nguồn: nhattrangjk.blogspot.com