Sách Việt sử cương mục tiết yếu
của Đặng Xuân Bảng có đoạn viết về một sự việc xảy ra thời Trịnh Doanh:
“Doanh để tâm xem xét mọi việc,
đặt ống đồng ở cửa phủ, cho ai có việc gì, hoặc bị oan khuất, được bỏ thư vào
đó, cứ năm ngày một lần trình lên chúa. Nhưng sau đó điều tra lại những điều
dân chúng mật cáo quan lại tham nhũng, thấy phần nhiều không đúng. Một viên
quan là Lê Trọng Thứ, cha Lê Quý Đôn khải rằng: Lòng người ngày nay khác xưa,
yêu ghét khen chê chưa chắc đã công bằng cả … Nếu muốn phân biệt hay hèn, thì
nên cho trình bày bằng lời nói, thử tài bằng việc làm, khảo sát thực tế bằng
công trạng, chứ không nên làm lối cáo giác bí mật, vì chỉ tăng thêm cái tệ kèn
cựa nhau”.
Theo ngôn ngữ hiện đại, trước mắt
chúng ta là một quá trình dân chủ, nhà cầm quyền muốn được nghe ý dân để tiện
quản lý xã hội. Nhưng người dân không đủ tư cách. Họ làm hỏng nó một cách hồn
nhiên. Đằng sau thất vọng về một sáng kiến là nỗi thất vọng chung về những con
người.
Sự tình nói trên vốn không phải
là câu chuyện riêng của thời Lê Trịnh. Vài nhà viết sử đôi khi từng đưa ra khái
niệm dân chủ ở nông thôn. Nhưng các công trình nghiên cứu kỹ càng hơn cho biết
làng xóm người Việt chủ yếu do các dòng họ thao túng, cái gọi là dân chủ ở đây
chỉ làm phép. Bản thân người dân không đủ trình độ tham gia công việc của cộng
đồng. Thường họ chỉ nhìn ra rất nhanh cái gì có lợi là trụ bám thật kiên trì để
giành phần hơn ngoài ra sẵn sàng dửng dưng chây bừa. Không ai bảo ai mà tự
nhiên ai cũng tự nhủ trốn được việc gì hay việc ấy. Cha chung không ai khóc,
ngại đóng góp vào việc chung đã thành một lẽ sống. Những cuộc bàn cãi ở làng
xưa thường diễn ra vô nghĩa, nhiều khi những ý kiến lăng nhăng tùy tiện lại trở
thành tiếng nói cuối cùng.
Đây cũng là tình trạng chi phối
xã hội. Càng sống càng tiếp xúc với thiên hạ, các thế hệ nối tiếp đặt ra cho
mình biết bao hoài vọng. Song sự nhân từ nhiều khi lại là một cách “diệu” nhất
để khuyến khích lười biếng, sự tin cậy biến thành chỗ dựa cho dối lừa, và lòng
tốt thì không bao giờ đủ sức đương đầu với thói vụ lợi. Cứ thế biết bao sáng
kiến bị chôn vùi, các phần tử tinh hoa càng cục cựa càng sầy vẩy và cảm giác
bất lực đến cả với những người còn rất trẻ.
Học là gì? Nói cho gọn, học là
cách con người muốn sống một cách có ý thức, muốn vượt lên những tầm thường dại
dột để tự đào tạo, để bản thân trưởng thành mà xã hội ngày một thịnh trị.
“Người mình ai cũng ham học”, một nhận xét như thế đã thành câu cửa miệng.
Nhưng nhìn kỹ thấy quan niệm chung về học lại quá sơ sài, người ta chỉ cầu nhàn
và bằng lòng dừng lại ở những kiến thức sơ đảng. Ham học nhất chỉ là những
người muốn đi làm quan. Chuyện sôi kinh nấu sử cũng như quên mình thi cử rút
cục là động tác của kẻ muốn có mảnh bằng để gõ cửa quan trường, còn như con
người ham học ngày càng mất hút.
Dân tộc nào thì cũng vậy thôi, bi
kịch chung của nhân loại là sự phân ly thường trực giữa nguyện vọng và khả năng
thực tế. Nhưng ở người Việt, tấn bi kịch này có một sắc thái riêng mà câu tục
ngữ Miệng khôn trôn dại đã nói được gần đủ. Thế nào là đẹp thế nào là hay nhiều
khi không phải ta không biết. Nhưng còi cọc yếu ớt, con người lý trí ở ta nhanh
chóng bị con người bản năng tầm thường kéo lùi trở lại. Miệng thì khôn mà trôn
thì dại, ta bị cuốn vào những hành động tầm thường hư hỏng. Để tan vỡ mọi ước
ao. Để trôi tuột khỏi tay mọi cơ hội.
Sau bao bất lực, con người có nản
lòng cũng không lạ. Một sự bi quan bao trùm dai dẳng. Nó ngấm sâu vào tâm trí,
nó âm thầm di truyền, và trong một ít trường hợp hiếm hoi làm nên sự biết điều,
sự nhẫn nhục rất đáng vì nể.
Song phổ biến hơn, là sự xuất
hiện thường trực của ảo tưởng. Ta sẵn sàng khoác cho những công việc bé nhỏ
những ý nghĩa đâu đâu. Những mỹ từ thật kêu được lạm phát để phong tặng cho
những con người và đồ vật loàng xoàng. Khái niệm sáng tạo bị hạ giá. Nhiều
người trở nên thích làm bộ làm tịch phô trương khoe mẽ. Họ sống như diễn trò.
Họ kỳ công tìm kiếm và khoác cho mình những danh hiệu hão hiền chỉ cốt lừa mị
chung quanh. Thói sĩ diện đang được tha bổng vì ngày một phổ biến.
Khi đi vào nông thôn VN, cả các
nhà xã hội học lẫn các nhà văn hiện đại từng ghi lại một hủ tục: người Việt ở
các làng xóm thường hám danh. Họ sẵn sàng dốc tiền cả đời dành dụm và bán nhà
bán cửa để mua nhiêu mua xã; sau một lần khao vọng đẩy vợ con đi làm thuê.
Còn tệ làm hồ sơ giả để vinh danh
cho quê hương thì kéo dài đến hiện nay, xưa là xin sắc chỉ vua ban và ngày nay
là xin bằng di sản văn hóa. Lúc này cái gì người ta cũng sẵn sàng làm, sự dối
trá bao phủ khiến cho thiện chí và ảo tưởng chỉ còn hiện ra với bộ mặt thảm
hại.
Vương Trí Nhàn
Nguồn: vuongtrinhan.blogspot.com