Còn hai con mắt một con khóc người
Con mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ“
(Trịnh Công Sơn)
Cơ chế của sự nhìn
Một sớm mai, có thể sau một giấc
ngủ nhiều mộng mị, khi mở mắt ra, hành động nhìn của chúng ta quả là một bản
năng rất tự nhiên đến nổi chúng ta không hề ý thức được điều đó. Con người xem
thế giới như ở bên ngoài bản thân mình, như một cái gì đó để suy ngẫm trong trí
tưởng tượng. Thế giới bây giờ trở thành đối tượng khách thể và được điều khiển
bên trong sân khấu của tư duy thay vì nó là một hiện thực có hình tướng ở bên
ngoài. Cũng chính động thái được vận hành như vậy, nên khi khách thể hoá thế
giới thì ta lại càng có nguy cơ đánh mất đi cái cảm giác tiếp xúc trực tiếp với
thế giới, một loại cảm giác mà con người có được với tư cách là kẻ tham dự trực
tiếp bên trong lòng thế giới.
Tuy nhiên, không thật đơn giản
như vậy, những nghiên cứu sâu sắc hơn của khoa học về “cơ chế cái nhìn” đã cho
thấy động thái nhìn thực ra mang tính chủ quan rất cao và nó không phải là một
sự “chụp ảnh”. Thông thường phần lớn cái mà chúng ta nhìn thấy đều phát lộ ra
từ những cái ta muốn tìm hiểu. Điều này cho thấy không có một phân biệt giữa
hành vi nhìn trong trí não với cái nhìn qua đôi mắt, hai hành động này tác động
qua lại, nối kết với nhau. Nói theo cách nói của kinh điển Phật học nó không
phải một mà chẳng phải hai.
Theo kiến thức khoa học về thần
kinh não bộ thì khả năng nhìn thế giới phụ thuộc mạng lưới hoạt động phức tạp giữa
mắt và bộ não mà căn bản là “đường dây thông tin liên lạc” bên trong các vô số
vùng khác nhau của não bộ.
Bước đầu tiên, những tín hiệu từ
đầu dây thần kinh đi vào bộ não, ở đó nó phân rã thành ba nhánh đi vào ba trung
tâm cách biệt: não giữa, tiểu não và phần vỏ não phụ trách thị giác. Riêng phần
vỏ não lại chia ra thành nhiều trung tâm khác nhau, mỗi trung tâm phụ trách một
chức năng nhìn tách biệt. Sự nhìn thấy một đối tượng nào đó thực sự chỉ diễn ra
trong quá trình xử lý tại nhiều vùng khác nhau của vỏ não phụ trách thị giác
như vùng có chức năng nhận dạng, chức năng khu vực nhận diện có màu sắc, về sự
chuyển động .v.v.
Bước tiếp theo, các thông tin
khác nhau thu nhập từ đối tượng nhìn sẽ được tích hợp lại để thành một cái nhìn
toàn thể và bộ não lập tức tạo ra một loạt các phỏng đoán và nghi vấn. Chẳng
hạn khi một chiếc lá rơi ngoài khung cửa thực ra mắt chỉ thấy một loạt cả đường
nét, một khu vực chuyển động, những mảng màu sắc.v.v. Tích hợp các thông tin đó
lại với nhau ta mới thấy thực sự rơi của chiếc lá.
Thông thường, thông tin không chỉ
có chuyển từ đầu dây thần kinh thị giác tới bộ não mà còn có hàng loạt nghi vấn
được gởi từ bộ não tới mắt. Hai dòng thông tin này gặp nhau dọc theo các đầu
dây thần kinh thị giác. Tại nơi đây, tín hiệu truyền từ não bộ xuống sẽ thẩm
vấn những dữ liệu thô được gởi lên và bảo đảm rằng chỉ có những thông tin có ý
nghĩa và chuyển đến vùng não bộ phụ trách thị giác. Có thể gọi sự hoạt động này
là “lọc thông tin thị giác” để bộ não không quá tải bởi mọi thứ mà mắt phát
hiện. Nó chỉ quan tâm đến những thông tin thích hợp với quang cảnh mà nó cố
gắng tạo dựng.
Một khi những thông tin đã tới vỏ
não sẽ tạo dựng nên một giả thiết mới về thế giới bên ngoài, thì lúc đó bộ não
sẽ chỉ huy điều động mắt thu lượm những dữ liệu mới để xác nhận giả thiết đó
hay làm rõ những gì trong hình ảnh đã nhìn thấy.
Nhiều khi cái mà ta nhìn thấy
không hẳn là cái đang ở trước mắt mà là cái đã được tái hiện từ trí nhớ và từ
sơ đồ thị giác của bộ não. Chẳng hạn khi nhìn các vết rạn trên mặt tường có thể
trông giống một hình người con gái đang xoã tóc, có khi giống một con ngựa đang
phi.v.v. Trong những tình huống như vậy, các sơ đồ thị giác của não đã phóng
chiếu những hình ảnh bên trong trí óc lên thế giới xung quanh. Sơ đồ này phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như sự trưởng thành con người với bề dày của sự trải
nghiệm, bản năng của di truyền, của môi trường sinh hoạt.
Hành vi của cái nhìn bao hàm cả
hành động tra vấn thường xuyên đối với thế giới bao quanh và sau đó là cách
giải quyết những nghi vấn đó và đến phần mình, những giả thiết thị giác do con
người tạo ra về thế giới, phần lớn hình thành trong hoàn cảnh mà ta có mặt
trong đó. Điều này nói lên một thực tế, chúng ta chỉ quen với những giá trị
được nhận thức bởi mắt, tai, thường nghiệm. Tất cả giá trị phổ quát thường là
tập hợp theo số đông được chấp nhận bởi nhiều cá thể.
Tỉ như câu chuyện một nhà thiên
văn học Trung Hoa, khi ông nhìn lên những ngôi sao gần nhau bên kia bờ sông
Ngân, ông liên kết chúng lại thành hình ảnh cô gái dệt lụa. Ông gọi đó là chòm
sao Chức nữ. Ông có thể cười thầm khi nghe một nhà thiên văn Hy Lạp, cũng nhìn
chòm sao đó, lại gọi là một cây đàn Thất huyền.
Việc quan sát thế giới chung
quanh trên các đối tượng, hiện tượng… là hoạt động rất tự nhiên của con người
từ lúc mới chào đời và đã có từ ngàn xưa, dần dần trở thành hoạt động khoa học.
Mãi đến thế kỷ 20, con người mới đạt nhiều thành quả kiêu hãnh về trí tuệ. Và
chính niềm say mê điên cuồng này khiến con người đã suy tôn khoa học có khả
năng điều khiển và kiểm soát thế giới, với niềm tin rằng nhân loại sẽ có một
thế giới tốt đẹp cho chúng ta và con em chúng ta. Thực tế cho thấy chúng ta
đang thưởng thức chủ nghĩa lạc quan này với một nhúm muối mặn vả với đôi mắt
sâu thẳm nhìn vào một màn sương mù mịt. Có quá nhiều bí ẩn trong thế giới thực
tại. Hy vọng tìm hiểu được bản chất của thực tại có lẽ chỉ là ảo tưởng. Nhà bác
học N-Bohr, một trong những trụ cột Vật lý hiện đại đã nhắn nhủ: Mục đích của
khoa học là làm tăng thêm và sắp xếp kinh nghiệm của chúng ta. Nó không có mục
đích phát hiện ra cốt lõi thực của hiện tượng.
Chúng ta đã rơi từ niềm tin xác
định tan biến dần thành sự hoài nghi của bất định.
*
* * *
Cách đây hơn hai ngàn năm trăm
năm, khi giảng cho chúng sinh về “bản chất thế giới”, một trong những việc đầu
tiên Đức Phật là phân tích về hoạt động quan sát. Nội dung được ghi lại trong
bộ kinh nổi tiếng. Kinh Lăng Nghiêm.
Cái nhìn trong Phật học
Thế giới trong quan niệm Phật học
bao gồm tất cả cái đang hiện hữu bên trong con người cùng với toàn thể cái hiện
diện bên ngoài. Nói khái quát theo cách phát biểu quen thuộc, thế giới là toàn
bộ chủ thể bên trong và những đối tượng khách thể bên ngoài. Chủ thể bên trong
là ta, khách thể bên ngoài là thực tại khác biệt ta. Tuy vậy, không có lằn ranh
nhất định giữa bên trong và bên ngoài. Chẳng hạn khi ta đưa bàn tay lên thì cái
tay là đối tượng của mắt, nó là sắc, là thuộc cảnh trần và vì vậy nó thuộc bên
ngoài. Lại nữa, ta bỗng nhiên thấy nổi buồn chợt đến trong lòng, cái buồn đó là
đối tượng của ý, nghĩa là trở thành pháp trần. Vậy tâm đang ở bên trong (chủ
thể) nay chuyển ra đối tượng bên ngoài.
Đây không phải là một kiểu lý
luận, mà là một sự thật. Sự thật này giúp ta bỏ sự phân biệt trong và ngoài.
Vậy thế giới trong ý nghĩa Phật học vận hành như thế nào? Đó là sự vận hành hỗ
tương giữa ba nhóm:
- Lụccăn: nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ý
- Lụctrần: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp
- Lụcthức: nhãn thức, nhỉ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức
Ba nhóm gọi chung, là 18 giới,
giới có nghĩa là chủng loại, tuy có mối quan hệ với nhau nhưng tác dụng có sự
khác biệt rõ ràng. Với 12 giới đầu còn gọi tên khác là 12 xứ với chức năng 6
căn tiếp xúc với 6 trần hiện khởi trong ý căn, sinh ra tác dụng nhận thức là 6
thức giới. Như thế, chủ thể là 6 căn, đối tượng là 6 trần và 6 thức là do căn
và trần hoà hợp mà hình thành.
Sự phân loại theo tác dụng của
nhận thức theo thể thống này khác biệt với các nhà duy vật phân tích. Họ cho
rằng, nhận thức của chúng ta hoàn toàn là sự tác dụng mô phỏng trong hệ thần
kinh được tiếp nhận từ ngoại cảnh, tức là chỉ có căn và cảnh mà không có sự
sinh khởi của thức, tác thành nên hoạt động nhận thức.
Như vậy, ba nhóm căn, trần cảnh,
và thức giới, cùng thành lập và cùng hiện khởi, và khi chúng tương giao với
nhau tác thành những chuỗi vận hành của sự sống và cũng từ đó sinh ra vạn pháp
trong thế giới tâm – sinh – vật lý. Một cách tổng quát, có thể chia thành chủ
thể và đối tượng: Chủ thể là 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý căn. Đối
tượng là 6 trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Đây là cách phân loại
theo nhận thức luận và như vậy nhận thức sinh khởi được là nhờ nương vào 6 căn
bên trong có vai trò chủ thể và 6 trần là đối tượng.
Tuy vậy, sự vận hành là vấn đề
khá phức tạp tế nhị trên toàn diện của tiến trình tâm – sinh – vật lý. Chẳng
hạn khi bàn về cái nhìn: mắt tiếp xúc với sắc (đối tượng vật chất), xúc này chỉ
hình thành khi hợp tác cửa nhãn thức, điều này được hiểu ngầm rằng bộ ba gồm
mắt, sắc, nhãn thức tập khởi vận hành để sau cùng là một hình ảnh của sắc được
ghi lại mà ta gọi là pháp. Pháp này tức khắc chiêu dụ nên các cảm giác hoặc là
trung tính (xã thọ), hoặc là khó chịu (khổ thọ) hoặc là dễ chịu (lạc thọ). Các
trạng thái khổ, lạc mà xúc giác con mắt sinh khởi thuộc về thân thức, do chức
năng của thân thức nơi mắt (hay gọi là cái biết của mắt).
Ta thử cảm thực sự vận hành này
qua mấy dòng thơ của nhà thơ tiền chiến Thế Lữ trong “Giây phút chạnh lòng”
viết tặng nhà văn Nhất Linh tác giả của tiểu thuyết “Đoạn tuyệt”. Bối cảnh
không thời gian: Dừng chân trên bờ sông xa vắng, vào một chiều lành lạnh gió
heo may, đưa mắt ngắm một bóng mây ở tít chân trời, tác giả lại bất chợt nhớ về
một kỷ niệm nhạt nhoà của ngày xưa yêu nhau.
“Rồi có khi nào ngắm bóng mây
Chiều thu đưa lại gió heo may
Dừng chân trên bóng sông xa vắng
Chạnh nhớ tình ta trong phút giây”.
Cũng trong cái bất chợt như vậy
mà trong một chiều nắng nhạt, mùa hạ của đất trời xanh tươi, cây cối chưa ngả
màu vàng vọt, nhưng nhà thơ Thâm Tâm trong “Tống biệt hành” đang nhìn hoàng hôn
lại cảm thấy thấm đẫm một nỗi buồn ly biệt
“Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong”.
Rõ ràng mắt (hay các căn khác) là
một loại vật chất rất vi tế mà các nhà sinh vật học gọi là thần kinh thị giác,
Phật pháp gọi là tịnh sắc căn có chất ngại nhưng khó nhận biết. Ý căn, cũng là
vật chất rất vi tế, nhà sinh lý học gọi là hệ thần kinh não bộ, là tổng khu của
hệ thần kinh. Ý căn có mối liên kết với 5 căn còn lại, nó tiếp nhận thông tin
từ 5 căn đưa vào và cũng điều khiển làm cho 5 căn hoạt động. Nó không chỉ là
vật chất mà nó còn là cơ sở để tinh thần hoạt động, khác hẳn với các nhà duy
vật luận cho rằng: “Tinh thần do vật chất sinh ra”….
Đối tượng của ý căn là pháp cảnh,
pháp là đối tượng của tâm, khi không thấy, không nghe , nội tâm cũng duyên với
cảnh giới như: thọ, tưởng và hành, nên gọi là pháp trần. Ý căn sinh khởi ý thức
là sự tổng hợp nên nhận thức.
Khổ cũng như lạc là một cảm thọ.
Nếu không có cảm thọ thì không có lạc, có khổ. Cảm thọ là nhận vào, thâu nạp
vào một cảm giác mà chúng ta thường đồng nhất với cái tôi, kinh Kim Cương gọi
là ngã tưởng. Ngày xưa, có người hỏi tôn giả Xá Lợi Phất, một đại đệ tử bên
cạnh Đức Phật rằng: làm sao có hạnh phúc được khi không còn cảm thọ? Ngài đã
trả lời lại một cách sâu sắc “không có cảm thọ mới chính là hạnh phúc” . Đây là
phát ngôn của bậc đạt Đạo. Còn phàm phu như chúng ta thường nhạy cảm đối với
cái gì liên hệ đến cái “tôi” cho nên cảm thọ của họ rất manh động dễ gây bất an
cho mình, cho người.
*
* * *
Trở lại sự vận hành của cái nhìn:
khi mắt thấy sắc (đối tượng vật chất) lúc đó “cái thấy” chỉ có xả thọ thôi, còn
xúc giác của mắt thuộc về thân thức mới thọ khổ hay thọ lạc
- Xả thọ tức cảm giác bình thường
không vui, không buồn. Thông thường con người khó chịu nổi cái êm ả, vô vị đó,
nên tâm thường khởi lên cái lăng xăng, tạo tác tìm thú vui, mộng tưởng, ước
vọng.v.v. mà Đức Phật gọi là “hành”. Hành bị điều động bởi dục ái. Dục ái chiêu
cảm sắc, thanh, hương, vị, xúc trong hiện tại, chiêu cảm kỷ niệm, hồi tưởng
trong xa xăm quá khứ, chiêu cảm đến ước mơ tưởng tượng, vời vợi ở tương lai.
Đây cũng chỉ là cái khổ tâm lý rất vi tế, gọi là “hành khổ“
Thi sĩ Bùi Giáng, ông đồng thời
là một nhà biên khảo triết học Tây Phương, có một đời sống rất lạ lẫm. Bề ngoài
tỏ ra an nhiên tự tại, buông xã thị phi, xem đời như sương khói mộng ảo, đôi
khi muốn phủi cả bụi thu mờ bằng đôi tay gầy guộc, nhưng tâm thức lắm khi còn
vướng nợ trần gian. Ông thao thức
“Một đời lận đận đo rồi đếm
Gối mỏi người đi đứng lại ngồi”
hoặc là
“Những nhịp bước bên đường, còn dội mãi
Vang về đâu không vọng lại hồi âm”
- Xả thọ đã như vậy, còn lạc thọ
thì sao?
Khi cái nhìn từ đôi mắt lại đưa
đến cảm giác vui hay thọ lạc, khuynh hướng con người là muốn giữ cái niềm vui
đó, đây chính là cái mà Phật học gọi là hữu ái. Hữu ái thuộc về tâm tham, làm
nền tảng cho đoạn kiến. Rõ ràng ta thủ đắc một cái gì đưa đến cảm giác lạc, thì
muốn giữ cái sở đắc đó lại, nhưng cái sở đắc này cũng như vạn pháp đều tiềm ẩn
trong nó sức công phá của luật vô thường. Vậy ta bất an, nỗi khổ chợt đến.
Nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan đã
không giữ được cảm xúc khi đứng nhìn lại thành quách xưa cổ in bóng một thời
vàng son trong nỗi đời hưng phế:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Hoặc giả, say đắm, chắp chặt niềm
vui quên cả thời gian như đang lắng đọng, Vũ Hoàng Chương thi sĩ viết:
“Nắng ngả còn chưa tin là chiều
Lá đổ còn chưa là mùa thu”
Trái lại, khi cái nhìn dẫn đến
cái khổ phát sinh, thường thì bản ngã có ý chống lại, muốn lẫn tránh hay loại
trừ nỗi khổ đó, hay không muốn nó tồn tại, danh từ Phật học gọi là Phi hữu ái.
Phi hữu ái thuộc tâm sân, là nền tảng cho đoạn kiến.
Chẳng hạn thời tiết mùa hè thường
nóng nực lúc ta đang làm công việc gì đó nên tỏ ra bực tức khó chịu. Như vậy đã
khổ nơi thân, lại thêm khổ nội tâm, cái khổ chồng chất thêm lên. Đem cái phi
hữu ái mà chồng lên cái khổ thì tạo nên cái khổ – khổ.
Khổ thọ thuộc về sinh lý là có
thực, nhưng cái khổ – khổ thuộc về tâm lý thì chỉ là ảo giác không có thực, cho
nên khi nhìn thẳng vào khổ – khổ tâm lý đó thì ảo giác sẽ mất đi.
Chẳng hạn, khi có công việc cần
làm, đi qua ngã tư gặp đèn đỏ, ta cảm thấy thời gian dừng lại lâu quá, trong
lòng nôn nóng bực bội khổ tâm. Rõ ràng, ta khởi lên ảo tưởng (tư tưởng không
đúng về thực tế) để rơi vào một ảo giác, rồi lại khởi lên một ảo tưởng để loại
trừ các ảo giác đó. Rõ thực cái tâm lăng xăng cứ chạy lòng vòng
Có thể tóm tắt rằng từ cái nhìn
ban đầu dẫn đến cảm thọ:
+ Càng cố gắng duy trì lưu giữ
cái lạc thọ càng phát sinh hoại khổ do hữu ái hay tâm tham đưa lại
+ Càng nóng vội diệt khổ thọ càng
gia cố thêm khổ – khổ do phi hữu ái hay tâm sân đem lại
+ Càng lăn xăn tạo tác vì xả thọ,
càng gây thêm hành khổ do dục ái hay tâm si điều động.
Khổ, lạc hay thọ xả chỉ là cảm
thọ, đơn thuần, tự nhiên và khách quan. Các loại cảm thọ này khác nhau ở mỗi
người. Khi ảo tưởng phản ứng lên cái cảm thọ khách quan ban đầu (xả, khổ, lạc)
thì tác động làm cho nó trở thành cảm thọ tâm lý chủ quan khổ – khổ, hoại khổ
và hành khổ có bản chất hoàn toàn là ảo giác.
Có thể thấy rằng, khi đang trong
cảm giác khổ, lẽ ra ta nhìn thẳng minh bạch vào cái khổ mà không khởi tâm, phê
phán thêm bớt, đánh giá để sự bất mãn, mong muốn diệt khổ không có điều kiện
chiếm lĩnh, phô diễn lấn át, vô minh và ái dục không thể tham gia điều động.
Nhưng làm thế nào, pháp môn nào
có thể làm cho tâm không khởi lên được. Đây là điều bất khả đối với chúng ta.
Khi đối tượng được xúc, thọ, tưởng nhận diện, thì lập tức ngay sau đó là sự
phản ứng tích cực của tư. Tư tự nó trung tính, nhưng khi ở trong tâm bất thiện
thì chính nó điều động các tâm sở bất thiện để đưa ra hành vi phản ứng đầy dẫy
tham, sân, si. Ngược lại ở trong tâm thiện thì nó dẫn đầu các tịnh quang tâm sở
biểu hiện thành các điều lành.
Thực ra, trừ khi ở trạng thái thụ
động lúc ngủ say, chứ lúc nào con người lại không có thái độ tức đả khởi tâm
rồi. Thậm chí đối với người có tâm hôn trầm và tâm yên tĩnh, chính là đang khởi
tâm si mê chứ không phải không. Ngài Huệ năng có dạy: “Đối cảnh tâm sở khởi” và
cũng có lần Đức Phật trả lời một câu hỏi: “Bạch Thế Tôn, nếu tất cả tâm không
khởi thì sẽ không có tất cả khổ”, Ngài dạy rằng “Chớ có nói vậy, chỉ không nên
khởi tâm bất thiện mà thôi“. Vậy thật rõ ràng, chúng ta phải thấy, phải biết và
ứng xử theo thể, tướng, dụng để thích nghi chứ không chấp một bên mà sinh ra có
chỗ trụ tâm.
Theo quan điểm Phật học, điều gì
làm sinh khởi tham, sân, tà kiến cho mình, cho người thì gọi là bất thiện. Điều
gì làm sinh khởi vô tham, vô sân và chánh kiến thì gọi là thiện
Chúng ta có thể hiểu thêm hơn nữa
điều này qua định nghĩa của Đức Phật:
“… Phàm pháp nào thuộc về phần
thiện, tất cả những pháp ấy lấy như lý tác ý làm căn bản, lấy như lý tác ý làm
chỗ qui tụ, như lý tác ý được gọi là tối thượng đối với những pháp ấy”.
(Tương Ưng V)
Như vậy, các pháp bất thiện là
liên hệ căn bản đến phóng dật và phi như lý tác ý. Còn nếu chúng ta tinh cần để
chánh kiến tác ý trên khổ, vô thường, vô ngã thì các bất thiện sẽ dần dần bị
đoạn diệt.
*
* * *
Mọi người đều cho rằng khoa học
và công nghệ đồng nghĩa với tri thức, với thông tin và hơn nữa sự tăng trưởng
và tích tụ thông tin ngày càng trở nên vô hạn. Mặc dù công nghệ đã mang lại
nhiều yếu tố tích cực to lớn đối với đời sống nhưng nó cũng gây nhiều hậu quả
tàn phá đến khốc liệt nghiêm trọng. Khoa học, và công nghệ đã chứng tỏ rằng nó
có thể tác động vào thế giới chứ không thể làm chủ được thế giới.
Khoa học càng không thể tạo ra
một nền đạo lý nào cả. Chỉ có những phẩm chất thiện (như lời dạy của Đức Phật)
của con người mới có thể định hướng được sức tác động vào thế giới chúng ta.
Phẩm chất thiện bao hàm một nội dung được sinh khởi từ suy niệm tâm linh. Sự
suy niệm hay nỗ lực tinh thần dẫn đến một biến đổi sâu sắc về cách thức cảm
nhận thế giới và tác động vào thế giới của chúng ta. Chỉ cần thấy rằng con
người thường xuyên chịu sự chi phối, điều động bởi thói ích kỷ, và đồng thời
thấy rõ được tính ích kỷ này bắt nguồn từ sự vô minh có từ vô thuỷ trong sự vận
hành đời sống chúng ta.
Vô minh hàm ý là hiểu biết nhầm
lẫn về bản chất thực sự của con người và của thế giới. Vô minh không ám chỉ
thiếu kiến thức, hay không am tường một lý thuyết, một học thuật, một chuyên
môn.v.v.. Chẳng hạn như:
+ Nhận lầm thực tại vốn không có
ngã (không có tự tính) mà cho là có ngã. Sự chấp có ngã này đã dựng nên màn
sương dày đặc những vọng tưởng, nên gây đau khổ cho con người. Vì rằng chỉ với
thực tại vô ngã nên thế giới được sinh khởi và tồn tại. Ta thử chứng thực
nguyên lý này bằng một số quan sát.
. Vì cacbon (C) và sắt (Fe) do vô
tự tính nên có hợp chất gang, thép được tồn tại.
. Vì hư không là không có tự tính
nên có khi tối, khi sáng; có khi mưa, nắng và bốn mùa vận hành thay nhau.
+ Nhận lầm sự tham đắm ngũ dục,
ru ngủ trong khoái lạc là khổ do không bao giờ thoả mãn. Chẳng hạn, có người đã
hoàn toàn thoát khỏi cảnh nghèo rồi, nhưng khi cầm khúc bánh mì trên tay thì kỳ
ức đói nghèo năm xưa vẫn hiện về trong tâm thức họ. Đau khổ chỉ dẫn đến đau
khổ, vì đau khổ chỉ dựa trên đau khổ mà tồn tại. Nó chỉ có thể sinh trưởng trên
dòng suy nghĩ miên man bất định của lo âu, toan tính, sợ hãi. Thế mà cho là
hạnh phúc, là vui sướng.
Nhà thơ Nguyên Sa viết:
“Anh chỉ ngồi nhìn sao khuya rung động
Nghe bờ môi tát cạn những hơi thở yếu dần”
hoặc
Từng hy vọng đã bay theo từng hy vọng
Không biết có phải vì nhát cuốc tháng ngày đã phạt cỏ đùa chơi?
Một đời sống tốt đẹp đích thực
lúc nào cũng đòi hỏi đến sự hài hoà giữa hai chân lý tương đối và tuyệt đối hay
giữa phương tiện và cứu cánh. Nói về chân lý tương đối thì bất kỳ điều gì chúng
ta thấy, nghe, xúc, chạm đều tỏ ra quan trọng bởi chúng đang tồn tại. Để tồn
tại trên cõi đời này chúng ta cần phải làm việc, cần có nơi ăn chốn ở, cần tiền
để sinh hoạt. Sự tiến bộ về mặt vật chất cũng được nhấn mạnh trong giáo lý của
đạo Phật. Đức Phật dạy rằng: “Một trong những điều quan trọng là phải thấu đáo
chân lý thế tục“.
Chân lý thế tục còn gọi là chân
lý tương đối và vì tất cả mọi hiện tượng đều là tương đối, hạnh phúc và đau khổ
cũng tồn tại như vậy. Tuy vậy xét ở phương diện tuyệt đối hay tối thượng thì nó
lại không đúng và thực sự không tồn tại. Chẳng hạn, đây là cái bàn lớn theo
nghĩa đủ chỗ xếp đặt được 100 cái cốc, nhưng lại quá nhỏ cho 1000 cái cốc, có
nghĩa cái bàn không phải lớn cho mọi lúc. Lớn, nhỏ đều phụ thuộc vào mục đích
sử dụng hay nói cách khác kích cỡ cái bàn chỉ là tương đối. Xét một cách tuyệt
đối, cái bàn thực sự không tồn tại như nó xuất hiện. Do đó khi nói đến vô ngã
thì ta đã nói đến sự thật của cuộc đời, nói đến một chất dinh dưỡng tối thượng
của hạnh phúc và an lạc. Đây là một sự tỉnh thức, thấy được đời sống luôn luôn
sinh khởi và hiện hữu trong dòng vận hành của nhiều nhân duyên tan – hợp.
Thậm chí, trên bước đường tìm
kiếm danh vọng, phú quí giàu sang thì cái “tôi” có thể đóng một vai trò quan
trọng nhưng trong sâu thẳm của nội tâm thì ôm ấp cái tôi, lấy cái tự ngã làm
trung tâm thì những tính khí của tự ngã sẽ biến tướng con người thành kẻ si mê,
kiêu mạn, thích sống với mộng tưởng hão huyền, thúc đẩy lao vào những cuộc
tranh chấp hơn thua, lang thang, dong ruỗi theo những khát vọng bên ngoài chẳng
khác nào tìm kiếm chân lý của đời sống dựa trên những khát vọng hình hài .
“Ai công hầu, ai khanh tướng
Trong trần ai, ai dễ biết ai”
(Đặng trần Thường)
Ta hình như đang nghe vang vọng
âm thanh tiếng thở dài của một cuộc đời lắm thăng trầm, đang cuốn vào vòng xoáy
vô hình làm khuấy động sự bình an nội tại, một sự an lạc sâu thẳm bên trong tâm
hồn có ý nghĩa cho đời sống của kiếp người.
Đặng Công Hanh
Nguồn: dangconghanh.wordpress.com