Đây là để nhắc nhở về tu hành cho
nên đề tài nói chuyện hôm nay là “Hai Giấc Chiêm Bao”. Trong đây có ai không có
chiêm bao không? Đúng ra, mỗi người đều có hai giấc chiêm bao: một giấc chiêm
bao ban đêm và một giấc chiêm bao ban ngày. Tức là cả ngày đêm tất cả đều ở
trong chiêm bao: một giấc chiêm bao dài và một giấc chiêm bao ngắn.
Tất cả đó đều vì cái vô minh,
luôn sống trong chiêm bao không hiểu không biết gì hết nên Phật gọi đó là mê.
Do vậy, còn biết mình sống trong chiêm bao thì chắc cũng tỉnh tỉnh được chút vì
đó là lẽ thật. Thí dụ như hôm qua gặp gỡ bạn bè gì đó, hoặc là bữa ăn hôm qua,
hoặc là những chuyện buồn vui, hay là cãi nhau hôm qua đó v.v… quý vị đem lại
đây xem có được không? Thì đem không được, rõ ràng là giống như chiêm bao chứ
gì nữa! Trong giấc chiêm bao, thấy mình ngồi ăn cái gì đó; nhưng khi tỉnh dậy,
có ai đó bảo đem lại cái đã ăn thì sao? Thì đem không được, đó cũng giống hệt
như chiêm bao chứ khác gì đâu!
Cũng như hôm qua quý vị ngồi xe
để lên đây, quý vị có đem cái buổi đó tới đây được không? Thì cũng không được
luôn. Cái thực tế như vậy mà còn đem không được. Vậy rõ ràng đó giống như chiêm
bao chứ gì nữa. Xa hơn nữa, cả một đời lao nhọc gây tạo sự nghiệp đổ mồ hôi sôi
nước mắt, có những lúc còn gian nan nữa nhưng khi tắt thở thì quý vị có đem
được cái gì theo không? Thì cũng là muốn đem theo mà đem không được, vậy rõ
ràng đó là giấc chiêm bao chứ có gì đâu! Hay là hôm nay ngồi ở đây mà quý vị
thử nhớ lại mười mấy hai mươi năm về trước, một thời oanh liệt của tuổi trẻ
hoặc lúc còn thơ bé thì sao? Đó rõ ràng giống như giấc chiêm bao chứ có gì đâu!
Mà lẽ thật cuộc đời là như vậy.
Xa hơn nữa, không những đời này
như vậy mà từ xa xưa vô lượng kiếp đến bây giờ thì tất cả chúng ta cũng đều ở
trong chiêm bao chứ gì! Một giấc chiêm bao dài bất khả tương kì trong vô lượng
kiếp từ khi bắt đầu mê cho tới bây giờ. Trong cuộc sinh tử luân hồi đó cũng có
lên có xuống, có lúc được lên cõi Trời mà cũng có lúc trượt tuốt xuống súc sinh,
xuống địa ngục. Trong đó thì cái nào mình cũng tham gia đủ, lòng vòng mãi trong
các đường. Một giấc chiêm bao dài, quá dài như vậy mà tới bây giờ mình còn chưa
chịu tỉnh nữa hay sao?!
Thiền sư Trí Nham (nối pháp Thiền
sư Ngưu Đầu - Pháp Dung) trước khi chưa xuất gia vốn là một lang tướng (tướng
võ), đến bốn mươi tuổi thì bỗng thức tỉnh theo Thiền sư Vũ Nguyệt xuất gia ở
núi Hoàng Công tại Thư Châu. Có lần, hai người bạn cùng ở trong quân ngũ nghe
tin Sư xuất gia tu hành ở núi nên lặn lội tìm đến để thăm. Vừa gặp Sư, hai
người bạn bèn nói:
- Lang tướng, ngài có điên không?
Tại sao lại ở chỗ này để làm gì?
Tức là một tướng võ lẫy lừng như
vậy mà tại sao bây giờ lại ở một mình trong một ngọn núi hoang vắng như vậy?
Thiền sư Trí Nham bèn đáp:
- Ta điên nhưng điên sắp tỉnh còn
các ông thì đang điên đó. Ôi! Mê đắm thân sắc, tham vinh hám sủng, sao không
thoát ra đi ?
“Ôi! Mê đắm thân sắc tham vinh
hám sủng, sao không thoát ra đi?”. Tức là tham đắm vinh hoa phú quý phải nổi
trôi ở trong sinh tử, mà như vậy không phải là điên hay sao? Vậy thì ai điên ai
tỉnh? Với cái nhìn của người đời thì Ngài đúng là điên thiệt! Đang trong thời
oanh liệt như vậy thì đáng lẽ phải thụ hưởng vui chơi sung sướng mà lại bỏ đi
tu! Nhưng với Ngài thì Ngài nói: “Ta điên nhưng điên sắp tỉnh còn các ông thì
đang điên đó”. Kiểm lại, quý vị thấy mình tu học Phật pháp thì có giống điều đó
hay không? Ai là điên, ai là tỉnh? Hòa thượng Tôn Sư có bài pháp về Con Tàu Kì
Lạ:
“Có con tàu không có người lái
nhưng nó chở vô số người từ thành phố đi ra biển. Trên đó có những người lính
áp tải các hành khách lên tàu, mà mỗi người khi lên thì đều có những hành lý
riêng. Chung một con tàu nhưng khi lên đó thì mỗi người đều có một hành lý
riêng. Vì đường xa nên tàu có những toa để ăn uống vui chơi. Có người thì say
mê ăn uống, có người thì vui chơi, có người thì lâu lâu đụng chạm nhau cãi vã
nhau, mà cũng có những người vì uất hận bức bách gì đó nên nửa chừng tàu chạy
thì nhảy xuống. Khi chạy ngang qua những cảnh đẹp, có người thấy thích ý muốn
tàu chạy chậm chậm lại để xem cho lâu. Khi chạy ngang qua những cảnh không như
ý thì muốn tàu chạy nhanh cho nó mau qua. Nhưng cả hai trường hợp con tàu vẫn
không chiều ý, nó cứ chạy đều đều, muốn nó chạy chậm cũng không được mà nó muốn
chạy nhanh cũng không xong!
Ở trên tàu đó chỉ có một ít người
biết số phận của mình là “Tàu là chạy sẽ ra biển!”, nên lo tìm những mảnh cao
su kết lại thành phao để chuẩn bị trước. Những người chung quanh thì âm thầm
nói: “Họ làm những chuyện thật kì lạ! Những người này quả thật điên rồ!”. Ngồi
trên tàu mà lại làm những chuyện điên khùng như vậy! Nhưng số ít người kia thì:
“Thôi kệ, ai nói gì thì nói, mình cũng nhận chịu vậy!”. Cuối cùng, cái gì đến
thì cũng phải đến. Biển cả dần hiện ra trước mặt, đã gần cuối đoạn đường rồi!
Con tàu vẫn cứ lao tới vì đâu có ai lái được nó! Khi biển cả lại gần sát trước
mặt, những người trên tàu bấy giờ mới hoảng hốt la hét: “Dừng lại! Dừng lại!”.
Những người trước kia nói rằng số ít người kia điên thì hoảng hốt sợ sệt, bây
giờ lại giống như điên! Còn những người bị đa số người kia cho là điên thì sao?
Họ rất bình tĩnh, có sẵn những chiếc phao rồi, hễ tàu lao xuống biển thì ôm
phao mà đi vào bờ”.
Tất cả chúng ta cũng vậy, “con
tàu” đó là con tàu sinh tử. Sinh là điểm bắt đầu, mà điểm cuối là tử. Còn
“những người áp giải” mình lên là cái nghiệp, nó dẫn mình đồng đi trên con
đường sinh tử. Nhưng tại sao “mỗi người lại có hành lý riêng”? Ở đây có ai có
chung hành lý với nhau không? Tuy cùng đi trên con đường sinh tử này nhưng mỗi
người đều có một hành lý riêng hết. Đó là cái nghiệp riêng đó! Không có ai
giống ai hết, dù cho cùng một cha mẹ sinh ra. “Trên đường có những cảnh đẹp”,
đó để chỉ cho các ngũ trần. Mình cứ lo nhìn, lo theo đuổi nó nên quên mất
chuyện sinh tử!
Cũng như mình đây, cứ lo đeo đuổi
các cảnh trước mắt này mà quên mất rằng mình sẽ chết. Thật sự ít ai nhớ tới
điều đó. “Trên đường đi, có những người giành giật, cấu xé, có khi còn quăng cả
đồng bọn của mình xuống tàu cho chết”, là có những người chết trước không đợi
tới đoạn cuối con đường. “Có những người biết được số phận của mình”, tức là
thức tỉnh chút đỉnh nên lo học đạo, lo tu hành không ham vui chơi theo ngũ dục
thế gian. Mà những người lo ham vui ngũ dục thế gian thì nói rằng: “Những người
kia đúng là điên! Bây giờ không lo thụ hưởng cuộc đời cho vui sướng mà lại lo
ăn chay niệm Phật cho khổ sở!’.
Cũng như bây giờ đây, ngày lễ
không đi ăn nhậu mà lại lo đi chùa, đó có điên thiệt không? Mà số ít người này
thì chấp nhận: “Ừ! Thôi, mình là điên”. Mà chịu điên một chút để làm chi? “Để
kết những chiếc phao”, là đi chùa học đạo! Đó là tạo những thiện nghiệp để khi
chết thì mình nương theo nghiệp lành an ổn mà đi, chứ không phải lúc đó là lo
sợ hoảng hốt. Rõ ràng đó là kết phao chứ gì! Do vậy, bây giờ thì mình phải chịu
tiếng là điên nhưng kết cục thì sẽ biết ai điên ai tỉnh. Chứ không thì, người
yếu yếu nghe người ta nói mình điên thì cũng sợ, bèn chạy theo họ thì đó đúng
là điên thiệt! Cuộc đời là như vậy.
Đúng ra, mỗi người ở đây đều sống
trong chiêm bao hết. Tất cả đều có hai giấc chiêm bao: hết giấc ban đêm thì tới
giấc ban ngày. Do vậy, người khéo tu cần phải lấy chiêm bao làm thành một pháp
tu. Mà phải quán như thế nào? Với cái nhìn của người đời thì chiêm bao cũng là
chuyện thế gian, nhưng với người hiểu đạo thì chiêm bao cũng là một pháp tu.
Người biết tu thì chỗ nào cũng tu được. Nhưng phải quán chiêm bao như thế nào?
Điểm thứ nhất, chiêm bao chẳng
phải là có mà cũng chẳng phải là không. Khi chiêm bao thì cũng thấy mình đi tới
đi lui, đi qua đi lại, gặp chuyện vui cũng cười mà gặp chuyện khổ cũng khóc,
gặp những cảnh ghê rợn thì cũng sợ, lúc đó thấy rõ ràng thì đâu thể nói là
không! Nhưng khi tỉnh ra rồi tìm thì tìm không được cái gì hết, vậy đâu thể nói
là có! Như vậy, rõ ràng chiêm bao không phải là có mà cũng không phải là không.
Quán chiêm bao là như vậy.
Rồi mình phải quán cuộc đời mình
đây cũng giống hệt như vậy. Đó là cách tu hành của mình. Còn sống ở đây thì còn
sinh hoạt qua lại đủ thứ, cũng vui cười, nhiều khi cũng tranh giành hơn thua,
ai nói nặng một chút cũng nhịn không được v.v… mà như vậy thì đâu phải là
không. Nhưng khi tắt thở rồi, tìm lại xem thì tìm được cái gì? Thì không được
cái gì hết, quán như vậy thì đúng là cuộc đời cũng chỉ giống như một giấc chiêm
bao. Có món ngon mà ăn thì cũng thấy thích, cảm giác thích thú cũng vui nhưng
nó chỉ vui chút rồi thôi. Chút xíu cảm giác ngon trên lưỡi qua rồi thì có được
gì đâu? Tìm lại cảm giác đó thì nó đã qua mất rồi, có được cái gì đâu, giống
hệt như chiêm bao vậy. Như vậy, cuộc đời là một giấc chiêm bao, điều đó không
thể chối cãi được. Trong đó cái gì là ta và cái gì là của ta? Buồn thương, giận
ghét, hơn thua v.v… mà cuối cùng kiểm lại thì hơn là hơn cái gì? Thua là thua
cái gì? Quán được như vậy là có tỉnh, đó mới là khéo.
Điểm thứ hai, khi chiêm bao mình
thấy mình đi đây đi kia, có ai tặng cho cái gì thì cũng mừng, mà gặp con cọp
rượt thì cũng sợ bỏ chạy v.v… Nhưng điều ít ai để ý là ngay khi mộng thấy như
vậy thì trong đó còn có thêm một cái ta nữa! Đây là chỗ mình phải quán cho thật
kỹ: có cái ta đi đây đi đó, cũng ăn uống cũng vui mừng, rồi khi có cọp rượt thì
cũng sợ bỏ chạy, mà như vậy thì còn cái ta nào thấy bị cọp rượt chạy đó? Thành
ra, đó là có hai cái ta rõ ràng: một cái là bị cọp rượt chạy, còn một cái là
thấy lại nó. Quán kỹ như vậy đó là hay rồi! Mà quán sâu hơn nữa thì có thêm một
cái ta nữa, đó là cái ta đang nằm trên giường.
Như vậy là có ba cái ta: một cái
đang nằm ở trên giường, đầu ở trên gối; một cái là cái ta bị cọp rượt chạy và
cái nữa là cái ta thấy lại hết những cảnh đó. Cái ta bị cọp rượt chạy là thuộc
về đối tượng, mà cái ta nhìn lại đó là cái ta quan sát, nó quan sát lại tất cả
các cảnh trong mộng, và thêm một cái ta nữa nằm ở trên gối. Vậy cái ta nào mới
là mình? Quán kỹ chiêm bao như vậy, tỉnh được chỗ này là vượt qua sinh tử, là
tỏ ngộ lẽ thật của chính mình qua nhiều kiếp mê lầm! Mà thấu được chỗ này tức
là tỉnh giấc chiêm bao!
Bây giờ tất cả quán kỹ lại xem
hằng ngày mình đang sống đây có giống như vậy hay không? Hằng ngày sống ở đây,
chúng ta sinh hoạt tới lui, cười vui tranh giành đủ thứ v.v… rồi cũng có cái ta
biết nhìn lại những cái ta buồn vui, giận ghét đó. Quý Phật tử ngồi thiền lâu,
khi tâm yên yên chút thì có thấy mình đi về quê hay đi chợ không? Có cái ta
đang đi về quê, đang đi chợ hay là đi đây đi đó, điều đó là rõ ràng rồi. Rồi
cũng có cái ta thấy lại cái ta đang đi chợ, đi đây đi đó. Vậy có giống như giấc
chiêm bao không?
Cũng có cái ta đang ngồi thiền
trên bồ đoàn, một cái ta thì đang đi về quê, rồi một cái ta nữa thấy lại mấy
cái ta đó. Quán thấu vậy thì mới thấy là mình sống mất mình, chư Tổ bảo chúng sinh
sống mất mình là như vậy. Luôn sống với cái bóng, với cái ta giả tạo, cái ta
thay đổi sinh diệt cho nên quên mất chính mình! Đa số thì chỉ nhớ chỉ biết có
cái ta đi đây đi đó, chứ đâu có nhớ cái ta thấy lại hết những cái đó. Mà cái ta
đi đây đi đó thì luôn luôn thay đổi: có lúc nó đi về quê, có lúc thì đi chợ,
cũng có lúc đi chùa v.v… Còn cái ta mà thấy lại những cái đó thì đâu có đi đâu,
nhưng ít ai nhớ tới nó mà luôn nhớ những cái đi đây đi kia v.v… thành ra sống
mất mình giống như những cái bóng!
Do vậy, trong một lần thượng
đường Quốc sư Đức Thiều khai thị cho đại chúng:
“Phật pháp hiện thành, tất cả đầy
đủ. Người xưa nói tròn đồng thái hư, không thiếu không dư. Nếu như thế thì cái
gì thiếu, cái gì dư? Cái gì phải, cái gì quấy? Ai là người hội, ai là người
chẳng hội?”. Tức ai là người hiểu, ai là người chẳng hiểu?
“Ai là người mê, ai là người
tỉnh?”. Tức mê là ai, tỉnh là ai?
“Do đó mà nói đi Đông cũng là
Thượng tọa, đi Tây cũng là Thượng tọa, đi Nam cũng là Thượng tọa, đi Bắc cũng
là Thượng tọa. Thượng tọa tại sao lại hội thành Đông Tây Nam Bắc? Nếu hội được
như thế thì con đường thấy nghe bặt dứt, tất cả các pháp hiện tiền, ngay đó là
giác ngộ giải thoát”.
Nghĩa là Thượng tọa thì chỉ là
Thượng tọa thôi, tại sao lại thành có Thượng tọa đi Đông, rồi Thượng tọa đi
Tây, Thượng tọa đi Nam, Thượng tọa đi Bắc? Sao lại có nhiều cái Thượng tọa như
vậy? Quý Phật tử đây cũng vậy, mình thì chính là mình thôi, tại sao lại có cái
mình đi Đông, đi Tây, rồi đi Nam, đi Bắc, đi tới đi lui v.v… nhiều như vậy? Vậy
thì cái nào mới là chính mình? Kiểm lại mỗi ngày từ sáng đến tối xem, lúc thì
có cái ta vui, lúc thì có cái ta buồn, lúc thì có cái ta giận, lúc thì có cái
ta ghét, rồi lúc thì có cái ta đi lên, có cái ta đi xuống v.v… Tại sao một ngày
mình lại thành ra nhiều cái ta như vậy?
Quán kỹ như vậy để thấy được chỗ
lầm mê của mình. Cuộc sống mê lầm là vậy, đó gọi là đang chiêm bao. Ngồi đây là
một cái ta, mà chút nữa đi về là thêm một cái nữa, thì thành ra nhiều thứ quá!
Rõ ràng là tất cả đang sống trong chiêm bao! Vậy thì, lấy chiêm bao làm pháp
tu, một pháp quán cho mình, mà quán được như vậy thì đó là một bước giác ngộ
lớn trong sự học Phật của mình. Cho nên, với người khéo thì những pháp thế gian
rất tầm thường nhưng mình vẫn có thể chuyển thành Phật pháp được hết. Tâm mình
sáng rồi thì nhìn đâu cũng sáng, thấy chiêm bao cũng vẫn sáng ngời. Như vậy,
một giấc chiêm bao mà khéo biết tu thì nó giúp mình vượt thoát ra sinh tử chứ
không phải là tầm thường.
Bây giờ đây, biết chiêm bao, hiểu
rõ rồi thì phải thực tập để quán mà tỉnh giấc thì đó là bước tiến của mình. Mà
chiêm bao thì chỉ là cái tạm thời, không có bản chất thật của nó. Ở đây có quý
Phật tử nào đem cái chiêm bao ra được không? Vậy thì đâu có cái gì là chiêm
bao, nó không có bản chất thật, là cái tạm bợ không miên viễn. Thí dụ như đang
chiêm bao thấy những cảnh vui sướng thích thú mà chợt có ai đó đánh thức dậy
thì tiếc, thì giận, đang sung sướng quá mà! Rõ ràng đó là cái tạm thời, không
phải là cái trường viễn cho nên có lúc mình tỉnh.
Xét cho sâu, bản chất thật của
chúng ta là là giác, là tỉnh chứ không phải là cái chiêm bao tạm bợ. Cũng như
bây giờ đây, cái thường của mình là cái tỉnh chứ không phải cái nằm ngủ trong
chiêm bao. Chiêm bao chỉ là cái tạm thời, cái tỉnh ở đây mới là cái thật. Mà đi
sâu hơn nữa thì cái này vẫn còn là chiêm bao, còn bản chất thật của mình mới là
cái giác cái tỉnh, phải nhớ kỹ điều đó.
Kinh Pháp Hoa có dạy: “Bản hoài
của chư Phật ra đời là nhằm khai thị cho tất cả chúng sinh ngộ nhập tri kiến
Phật”, thì ngay đó Phật đã ngầm chỉ cho mình cái gì rồi? Đó là tất cả chúng sinh
đều có tri kiến Phật nhưng vì mê nên quên mất, do vậy Phật mới ra đời để khai
thị cho chúng sinh ngộ nhập trở lại. Như vậy, bản chất thật của mình rõ ràng là
chân lý giác ngộ, là tri kiến Phật chứ không phải là cái chúng sinh chiêm bao
này! Do vậy, Phật ra đời là để đánh thức chân lý giác ngộ nơi tất cả chúng sinh
đều sẵn có. Cái gốc của chúng ta là tánh giác chứ không phải cái mê này, nó chỉ
là cái tạm thời.
Có câu chuyện tỉnh mộng của một
hoàng tử. Thời xưa, trong hoàng cung nọ thỉnh một vị A-la-hán thuyết pháp, vị
hoàng tử ở đó khi nghe pháp thì chủng tử Bồ-đề của mình gợi lại nên hoàng tử
bèn xin vua cha cho xuất gia tu hành. Vua cha và hoàng hậu hiểu đạo nên cho
hoàng tử xuất gia. Vị này theo vị A-la-hán kia một thời gian thử thách rồi được
xuất gia làm Tăng. Vị Tăng trẻ theo thầy mình du hóa từ nơi này đến nơi khác.
Lần nọ, cả hai thầy trò đi dần
một xứ láng giềng. Một buổi sáng, vị sư trẻ này đi khất thực một mình thì gặp
một nhóm cung nữ trẻ đang vui đùa ở trong sân. Khi vị này đến, nhóm cung nữ này
thấy dễ mến nên mời lại để cúng dường. Theo như pháp, vị này nhận của cúng
dường bèn một thuyết thời pháp về đạo lý vô thường cho nhóm cung nữ này bớt ham
vui ngũ dục. Khi đó có người thấy chuyện như vậy thì đến báo ông vua xứ này
nghe. Nghe báo cáo xong, ông vua khởi tâm tức giận nên đến đó và ra lệnh:
- Tu sĩ mà lại quây quần bên nhóm
phụ nữ như vậy thì hư rồi, đánh hai chục hèo cho nó tỉnh ngộ!
Lệnh vua vừa ban liền được thi
hành, Tỳ-kheo bị đánh máu me đầm đìa! Vị này tu chưa bao lâu nên tâm sân hận
liền khởi, bèn nhớ lại thân thế của mình: ‘Ta cũng là hoàng tử. Nếu ở triều
đình thì cũng lên làm vua, há ta lại chịu thua ông vua này sao? Bây giờ ta phải
hoàn tục, về cung lên làm vua đem quân qua san bằng nước này để trả hận mới
được!’. Nghĩ như vậy, sau đó vị này bèn về gặp thầy xin trả lại y thôi tu hành.
Ông thầy là vị A-la-hán đã chứng đạo biết vậy bèn đọc bài kệ khuyên nhủ:
Vui mừng hay đau khổ,
Mất mát hay thành công,
Tủi nhục hay vinh quang.
Hãy nhận lấy tất cả
Với tấm lòng bình thản.
Không có ý tham cầu,
Cũng không tâm ghét bỏ.
Đó con đường thoát khỏi
Vương quốc của ảo giác.
Tức là bình thản trước mọi vui
buồn đau khổ, mất mát hay thành công, tủi nhục hay vinh quang; mà cũng không
tham cầu hay ghét bỏ thì đó là con đường vượt lên khỏi ảo giác mê lầm. Tuy vậy,
vị tu sĩ trẻ này nghe thì nghe nhưng cũng chỉ phớt qua tai không vào nổi. Bây giờ
đang hận, phải trở về trả cái hận này, quyết định như vậy rồi. Ông thầy thấy
vậy bèn nói:
- Con quyết định như vậy thì
thôi. Nhưng bây giờ trời cũng tối, hãy nghỉ lại rồi sáng mai hãy đi.
Vị này nghe vậy bèn nghe lời thầy
nán lại một đêm. Ông thầy là vị A-la-hán đắc đạo nên đêm đó dùng năng lực trí
tuệ chuyển cho vị Tăng trẻ một giấc mơ. Vị này bèn mộng thấy mình về quê gặp
phụ hoàng và mẫu hậu. Sau đó, được đưa lên ngôi vua đúng như ý nguyện, vị này
bèn kéo binh tướng đi để trả thù. Nhưng thật không ngờ, kết quả là bị thất
trận, vua trẻ bị bắt cầm tù. Lúc sắp bị xử trảm, đám đông hò reo vang dội thì
vị này chợt thấy bóng dáng thầy mình hiện ra. Vị vua trẻ mừng quá liền kêu cứu:
“Bạch thầy, bạch thầy! Xin hãy cứu con, xin thầy tha lỗi cho con!”. Ngay lúc
đó, Tỳ-kheo trẻ liền tỉnh giấc thì thấy ông thầy đang ngồi bên cạnh mình. Hóa
ra đó là một giấc mơ! Vị thầy phương tiện khéo như vậy để cảnh tỉnh đệ tử.
Tỳ-kheo trẻ khi ấy mồ hôi còn ướt đẫm cả mình, vị thầy bèn an ủi:
- Con đừng sợ bất cứ mọi hình ảnh
gì xuất hiện trong đời, tất cả chỉ là một giấc mơ. Còn chính con, con vẫn còn
nguyên vẹn.
Tức là ông thầy nhắc nhở: “Tất cả
những hình ảnh gì xuất hiện trong đời con đều chỉ là một giấc mơ, còn chính
con, con vẫn còn nguyên vẹn”, ai tin được cái này là hay. Cuộc đời của mình từ
lúc bất giác vào sinh tử luân hồi cho đến ngay nơi hiện tại đây, từ lúc mở mắt
khóc oa oa cho tới suốt cả cuộc đời thì cũng chỉ là một giấc mơ! Dù cho vui
buồn v.v… gì đi nữa thì cũng là một giấc mơ, “còn chính con, con vẫn còn nguyên
vẹn” không mất mát thiếu thốn gì hết. Ai thấy được cái đó là giải thoát liền!
Cuộc đời của mình: buồn vui, giận ghét, hơn thua v.v… đó là giấc mơ chứ gì đâu.
Còn chính mình, bản chất thật của chính mình là tự tánh thì xưa nay vẫn bất sinh
bất diệt, nó vẫn còn nguyên vẹn. Chỉ là giấc mơ thì đâu dính gì tới tự tánh,
thấy chỗ đó thì giải thoát liền.
Khi ông thầy nhắc nhở như vậy, vị
tu sĩ trẻ liền tỉnh ngộ. Lòng thù hận liền tan biến, Tỳ-kheo trẻ bèn cúi đầu lễ
tạ thầy mình và tiếp tục trên con đường giải thoát. Bỏ được cái mộng về quê trả
thù thì nhẹ nhàng, quý vị quán thấm được chỗ đó thì cuộc đời mình sẽ rất vui
sướng. Cho nên, đây mọi người phải quán kỹ mà tỉnh giấc chiêm bao của mình.
Cuộc sinh tử luân hồi của tất cả chúng ta đây cũng y hệt vậy không gì khác hết.
Từ một niệm bất giác ban đầu đi vào trong sinh tử dài dài tới bây giờ, có khi
đi lên có khi đi xuống đủ thứ. Một vòng trong lục đạo luân hồi đó chắc là mình
đi đủ hết, không thiếu gì đâu! Nếu mình mở được con mắt Phật nhìn thấy dòng sinh
tử đó thì chắc là cũng ghê sợ lắm!
Mà sinh tử chừng bao nhiêu lần
như vậy mà tại sao bây giờ mình cũng vẫn còn ngồi ở đây? Đó tức là nó vẫn còn
nguyên vẹn, chỉ vì mê nên thành ra giấc chiêm bao chứ không gì hết. Nếu tự tánh
không còn nguyên vẹn thì chắc là nó cũng thành tro thành bụi hết chứ mình không
còn ngồi tới bây giờ đâu!
Quán kỹ như vậy thì đó đúng là
một giấc chiêm bao chứ không gì hết. Mê tự tánh của mình nên đi vào sinh tử
luân hồi, mơ một giấc chiêm bao dài nhưng khi giác ngộ rồi thì liền tỉnh ra:
“Đúng là tự tánh chính mình xưa nay vẫn còn nguyên vẹn từ thuở nào. Nó chưa
từng nhiễm ô, chưa từng sinh tử bao giờ!”. Như vậy, suốt cuộc hành trình sinh
tử luân hồi từ vô thủy kiếp đến bây giờ thì cũng chỉ là một giấc chiêm bao mà
thôi! Đúng như ông thầy ở đây nói: “Tất cả mọi hình ảnh xuất hiện trong đời con
đừng sợ, nó chỉ là một giấc chiêm bao. Còn chính con, con vẫn còn nguyên vẹn”.
Còn Lục Tổ thì thốt lên:
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh!
Đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt!
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ!
Đâu ngờ tự tánh vốn không lay động!
Đúng là không ngờ! Cứ tưởng mình
bị thứ này thứ kia, bây giờ đại ngộ rồi thì mới thấy nó vẫn còn nguyên vẹn như
thưở nào! Chúng ta đây cũng vậy, cứ tưởng rằng mình là những thứ chúng sinh,
những thứ phiền não vô minh này nhưng khi tỉnh ra, giác ngộ rồi thì mới thấy tự
tánh xưa nay của mình vốn là thanh tịnh, là nguyên vẹn suốt qua tất cả.
Trong Bảo Cảnh Tam Muội có câu:
“Pháp ấy như vậy, Phật Tổ thầm trao. Nay ông được đó nên khéo giữ gìn”, tức là
pháp đó không có thêm bớt, nó như vậy thôi. “Phật Tổ thầm trao”, tức là thầm trao
cái đó, ông nhận được thì khéo mà giữ gìn cái đó. Đó mới là cái chỗ cần giữ
gìn, còn cái chúng sinh này không phải là cái để cho mình giữ gìn.
Mà bây giờ thì ngược lại, mọi
người cứ lo giữ gìn cái chúng sinh này mà không lo giữ gìn cái đó nên đó gọi là
điên đảo. Cái đáng giữ gìn thì không lo giữ gìn, còn cái không đáng giữ gìn mà
lại cố giữ gìn! Mà vì cố giữ gìn cái không được nên thành ra khổ, muốn giữ hoài
mà nó thì không như ý mình nên tới lúc chết thì càng khổ! Còn ngược lại, cái
đáng giữ thì lại không lo giữ, đó là chỗ mà mình phải tỉnh giấc chiêm bao.
Trong Chứng Đạo Ca, Thiền sư Huyền Giác nhắc:
Vô minh thực tánh tức Phật tánh.
Huyễn hóa không thân tức pháp thân.
Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật.
Tức là tánh thực của vô minh tức
là Phật tánh, còn thân rỗng không của cái huyễn hóa này tức là pháp thân, còn
tự tánh sẵn nguyên vốn là thiên chân Phật (Phật sẵn có nơi tự tánh của mình).
Đây Thiền sư Huyền Giác xác định rõ nguồn gốc của tất cả chúng ta là thiên chân
Phật. Phật vốn sẵn có ngay trong tự tánh này, không do tạo tác, không có ai làm
ra nó. Cho nên, vô minh này chỉ là cái tạm bợ còn tánh thật của mình là Phật
tánh, cũng như thân rỗng suốt của cái huyễn hóa này chính là pháp thân, nó ở
ngay trong đây!
Bản tánh thật của mình là cái đó
chứ không phải là cái thân huyễn hóa này, đó là để cho mọi người thức tỉnh trở
lại: “Mình vẫn còn nguyên vẹn, chứ đâu có mất thiên chân Phật!”. Mà tỉnh ra chỗ
đó thì gọi là tỉnh giấc chiêm bao, cái này khi mê nó cũng không bớt mà khi ngộ
thì nó cũng không thêm. Cho nên, Lục Tổ khi tỏ ngộ ra thì mới thật sự: “Đâu
ngờ!” là như vậy. Thiền sư Trí Thông khi tham thiền thì nửa đêm chợt đại ngộ,
Ngài bèn la lên: “Tôi ngộ rồi! Tôi ngộ rồi!”. Sáng hôm sau, Hòa thượng mới kêu
lại hỏi:
- Hồi hôm ông nói ngộ là ngộ cái
gì, ông hãy nói xem?
Thiền sư Trí Thông bèn đáp:
- Sư cô là người nữ!
Ngộ ra sư cô là người nữ chứ
không gì hết. Ngộ chỉ vậy thôi, còn người bình thường thì tưởng đâu ngộ là cái
gì ghê gớm lắm, tưởng tượng đủ thứ hết! Còn ở đây, khi tỉnh ngộ ra thì đâu ngờ
nó vẫn như vậy. “Đâu ngờ tự tánh xưa nay vốn là thanh tịnh”, nó nguyên vẹn như
vậy chứ có thêm bớt gì đâu, lẽ thật xưa nay là như vậy. Do vậy, mình khéo tỉnh
mà buông cái mê này thì bớt khổ. Cũng như chuyện Phá Táo Đọa, ông thần táo mê
lầm nên bám cái bếp làm thân của mình rồi bắt người ta phải giết hại gà, vịt,
dê, heo v.v… để cúng tế. Hòa thượng Phá Táo Đọa thấy vậy thì thương xót nên đến
đó để thức tỉnh, Ngài lấy cây gậy gõ vào bếp hai ba cái rồi nói:
- Cái này là ngói gạch hợp thành,
thánh từ đâu lại, linh từ đâu đến mà ngươi đòi giết hại nhiều sinh mạng như
vậy?
Nói xong, Ngài gõ thêm hai ba cái
nữa thì cái bếp bỗng đổ xuống. Sau đó, Ngài bèn ra khỏi miếu. Đi được một đoạn
thì có một thanh niên mặc áo mão giống như vị quan đứng lễ ở trước, Ngài bèn
hỏi:
- Ông là ai vậy?
Vị đó thưa:
- Con là thần táo ở trong cái
miếu này. Vừa rồi, được Hòa thượng khai thị cho pháp vô sinh, con được giải
thoát sinh lên cõi Trời cho nên con đến để lễ tạ Hòa thượng.
Ngài bảo:
- Đó là tánh bản hữu của ông, ta
không có thêm bớt gì ở trong đó.
Khi thần táo đi rồi, thị giả bèn
thưa:
- Con theo Hòa thượng lâu nay mà
không được Hòa thượng khai thị cho pháp vô sinh như thế nào, còn ông thần táo
hôm nay được nghe pháp vô sinh gì mà mau được giải thoát như vậy?
Ngài bảo:
- Ta không có nói gì lạ, ta chỉ
nói: “Đây là ngói gạch hợp thành, thánh từ đâu lại, linh từ đâu đến?” mà thôi.
Chỗ khai thị đó giống y như mình,
thức tỉnh là thức tỉnh chỗ đó. Lâu nay, ông thần táo do mê lầm nên nhận cái bếp
đó làm mình, bị nó cột trói nên không thể giải thoát được. Ai đụng đến cái bếp
đó thì bị bẻ cổ vặn họng. Ông Hòa thượng này còn lấy gậy gõ gõ trên đó, nếu lúc
đó ông thần táo mà nổi giận lên: “Gõ đó là gõ trên đầu tôi!” thì càng đọa sâu
nữa. Nhưng ngay đó thì ông tỉnh ngộ liền bởi vì Hòa thượng khai thị: “Cái này
là ngói gạch hợp thành còn ông là thần tức là linh là thánh chứ không phải cái
ngói gạch vô tri này! Ngài gõ đó là gõ mấy cái cục gạch chứ đâu phải gõ đầu
ông, thì ngay đó ông tỉnh ngộ mới buông cái bếp.
Đây cũng vậy, mình khéo tỉnh thì
ngay đó cũng tỉnh giấc chiêm bao. Lâu nay cũng chỉ vì chiêm bao nên mới bám vào
thân này, mới cho nó là mình! Ai mà gõ gõ tới cái này, gõ gõ trên đầu trên cổ
tôi thì phiền não chứ gì nữa! Phiền não nên tạo nghiệp, thì mới đi trong sinh
tử luân hồi. Chứ nếu khéo khéo như ông thần táo, gõ gõ cái này là gõ da thịt,
gõ gân xương v.v… chứ không phải gõ tôi, buông nó xuống thì giải thoát, thì
tỉnh giấc chiêm bao đơn giản thôi. Mà tỉnh ra rồi nhìn lại thì cái thân này
đúng là mấy thứ vô tri. Da, thịt, gân, xương, tủy óc v.v… đều là mấy thứ vô
tri, nó đâu biết phiền não gì! Chỉ do mình cố bám vào đó nên mới sinh phiền
não, cho nên tỉnh giấc chiêm bao thì giải thoát.
Vua Trần Thái Tông, tuy làm vua nhưng
vẫn cũng tham thiền và được tỉnh ngộ. Khi tỉnh giấc chiêm bao rồi, ông có làm
bài nhắc nhở. Bài này mình đọc sẽ có sự thức tỉnh rất lớn. Hãy nhớ cái thân này
dù thế nào đi nữa rồi cuối cùng cũng sẽ chết, cũng cứng đơ nằm đó mà thôi!
“Hồn phách tuy về cõi quỷ nhưng
thi hài vẫn ở nhân gian”. Tức lúc chết, hồn phách đi về cõi quỷ (cõi âm) còn
thi hài vẫn còn nằm ở nhân gian. Hồn phách thì đi ra rồi còn cái xác thì vẫn ở
đây.
“Tóc, lông, răng, móng chưa kịp
tiêu thì đàm dãi, máu me đều chảy trước”. Tức lúc đó thì tóc, lông v.v… của
mình chưa tiêu kịp nhưng đàm dãi, máu me thì chảy trước.
“Rữa nát thì máu mủ chảy trào hôi
hám ắt xông trời xông đất. Đen nám chẳng dám nhìn, đen bầm thật đáng tởm, chẳng
luận giàu nghèo đồng vào cõi chết. Hoặc để trong nhà thì giòi đục tửa sinh,
hoặc ném ra đường thì quạ ăn chó xé”. Cái thân này khi chết là như vậy. Khi
chết rồi, thân thể bầm đen để đó, ai đi qua cũng thấy gớm! Nếu để nó nằm lâu ở
trong nhà thì sinh giòi hôi thối, còn nếu ném nó ra đường thì quạ ăn chó xé! Như
vậy, cái gì là mình ở trong đó? Thân này chết rồi thì thành ra cái xác thúi chứ
có gì đâu! Vậy thì cái gì là ta mà hơn thua tranh giành trong đó? Ở đây, mình
thấy rằng ông vua mà còn ngộ, còn tỉnh giấc mộng được như vậy thì mới thấy rằng
đúng là mình quá mê chấp vào cái thân này. Nó có nghĩa lý gì đâu!
Trong Tạng Thư Sống Chết có kể
câu chuyện về một phụ nữ chết giả. Khi hồi tỉnh, phụ nữ này kể lại kinh nghiệm
thoát xác của mình:
- Lúc đó, tôi đang ngồi tuốt ở
trên cao. Khi nhìn lại thì tôi thấy chính tôi đang co giật, mẹ tôi và đứa tớ
gái thì hoảng hốt la lớn tưởng đâu tôi đã chết rồi! Tôi rất thương hại cho họ,
một nỗi buồn vô tận nhưng tôi cảm thấy mình tự do ở trên cao ấy.
Tức là không lý gì lại đau khổ vì
không còn mắc kẹt trên thân này nữa, rất là thoải mái. “Khi nhìn lại thì tôi
thấy chính tôi đang co giật, mẹ tôi và đứa tớ gái thì hoảng hốt …”, vậy lúc đó
cái gì là mình? Cái thân này thì đang co giật, còn mình thì thấy cái thân. Lúc
đó, mà có ai đến gõ tới gõ lui, đánh đập cái thân này thì cũng đâu dính dáng gì
mình! Nhưng vì bám vào nó, điên đảo chấp nó là mình cho nên ai đó gõ gõ vào nó
là có chuyện. Do vậy, nếu khi ra khỏi xác thân này rồi nhìn lại thì mới thấy
đúng là lâu nay mình mê lầm! Cô này mà có tu thiền chút nữa thì ngay đó tỉnh
ngộ là hay biết mấy!
Thấy cái thân đang co co giật
giật, bà mẹ và đứa tớ gái đứng la hét hoảng hốt, mình ở trên nhìn xuống tự do
thoải mái vì không còn mắc kẹt nơi thân nữa, mà lúc đó tỉnh lại cái gì là mình?
Thì ngay đó là giải thoát liền, nhưng đây cũng không tỉnh nên rồi cũng phải sinh
tử luân hồi nữa để kiếm cái thân khác mà bám, mà cột vào nó. Chứ lúc đó mà tỉnh
lại thì hạnh phúc quá rồi! Đó là để cho mình thấy rõ những cái mê, cái lầm của
mình. Ngay ở đây, ai quán kỹ được như vậy thì rất hay! Luôn nhớ, luôn quán kỹ
điều này sẽ rất có lợi ích cho cuộc đời của mình. Khi thân này sắp chết, quán
kỹ quán sâu như vậy, luôn nhớ nó chỉ như giấc chiêm bao thì rất hay, thì đâu có
sợ chết. Hòa thượng Tôn Sư có bài kệ Mộng:
Gá thân mộng
Dạo cảnh mộng.
Đây tức là suốt cuộc đời, khi bắt đầu sinh ra
là “gá vào thân mộng này”, mà đi một vòng sáu bảy chục năm là “dạo cảnh mộng”.
Nhưng khi chết thì:
Mộng tan rồi,
Cười vỡ mộng.
Lúc đó, “tan giấc mộng rồi” cũng
giống như cái cô này chết giả vậy. Mà tỉnh lại thì thấy cái thân đang co co
giật giật đó không phải là mình! Mình đang nhìn nó đây mà, thì lúc đó là “cười
vỡ mộng”. Mà cô này thì chưa tỉnh, nếu tỉnh thì rất là hay! Mình mà cũng giống
như ông thần táo, ngay đó buông nó đi thì liền giải thoát! Như vậy, bao nhiêu
đó đủ cho mình tu rồi. Mọi người phải nhớ: “Suốt cuộc đời mình từ lúc sinh ra
khoác oa oa cho tới lúc tắt thở chỉ là hai giấc chiêm bao chứ không có gì
khác!”, luôn luôn nhớ như vậy.
Tóm kết lại, tất cả chúng ta đây
đang sống trong chiêm bao: một giấc chiêm bao ban đêm và một giấc chiêm bao ban
ngày. Tất cả ngồi đây đang ở đâu? Chiêm bao mà có biết mình đang chiêm bao hay
không? Chiêm bao mà biết mình đang chiêm bao thì hay quá! Như vậy, đúng là tất
cả đang ngồi trong chiêm bao, ban ngày mở mắt mà chiêm bao! Bây giờ đây có ai
chịu tỉnh chưa? Đang nằm chiêm bao mà có ai đó tới đánh thức mình thì sao? Bây
giờ đây cũng vậy, đang được đánh thức mà không chịu tỉnh nữa thì sao? Thì thôi,
không biết nói sao nữa!
Vua Trần Thái Tông có làm bài văn
khuyên người phát tâm Bồ-đề là để tỉnh giấc chiêm bao đó. Mình mới thấy, đang
làm vua với bao nhiêu công việc triều đình như vậy mà ông cũng còn tu, cũng
tham thiền được ngộ đạo mà cũng còn có những lời rất đạo lý nhắc nhở cho người.
Thật là đáng kính nể! Còn ở đây, có vị nào công việc nhiều hơn vua không? Vậy
mà cũng có người đổ thừa tu không được vì “Bữa nay bận cái này, mốt bận việc
cái khác v.v…”, bận nhiều quá! Mình có nhiều lắm chỉ là việc một nhà hay hai
nhà, còn ông vua thì có biết bao nhiêu là việc! Quán như vậy, nhớ như vậy để
thúc đẩy mình bớt buông lung, có thời gian mà tu hành. Đây vua Trần Thái Tông
nhắc nhở:
“Hoặc có kẻ vùi đầu trong ăn uống
qua mất một đời”, tức là lo vùi đầu trong chuyện ăn uống để qua mất một đời.
Thì đó là trong chiêm bao, hoặc có người trên đường tu hành lầm lẫn không thức
tỉnh nên cũng không tỉnh giấc chiêm bao được.
“Đâu biết tánh giác Bồ-đề mỗi mỗi
viên thành, nào hay căn lành Bát-nhã người người đầy đủ”. Mọi người đều có tánh
giác Bồ-đề không ai thiếu, cũng như là căn lành Bát-nhã ai ai cũng đều có đủ.
“Chớ luận đại ẩn tiểu ẩn, thôi
phân đại gia xuất gia, chẳng thuộc người tăng kẻ tục, chỉ cốt nhận được bản
tâm”. Đại ẩn tiểu ẩn tức là ẩn trên núi hay ở tại thế gian hoặc là người tại
gia hay xuất gia. Tức là không phân biệt tại gia xuất gia, hoặc ở trên núi non
thành thị v.v… ai cũng đều có cái đó, cốt làm sao khéo nhận được bản tâm là
xong! Thì đó là tỉnh giấc chiêm bao. Một bài kệ khác, vua Trần Thái Tông cũng
nhắc nhở mọi người tỉnh ngay trong sắc thân này:
Vô vị chân nhân thịt đỏ au,
Hồng hồng trắng trắng chớ lầm nhau.
Ai hay mây cuộn trời trong vắt,
Ven trời sương biếc núi một màu.
“Vô vị chân nhân thịt đỏ au”, tức
là mỗi người đều có một con người chân thật không có địa vị, không có ngôi thứ.
Cũng không có sang hay hèn, cao quý hay thấp kém gì mà con người này ở ngay
trong cái cục thịt đỏ au này, trong xác thân này đây! Đó là cái khéo của mỗi
người.
Mà “Hồng hồng trắng trắng chớ lầm
nhau”, tức là chớ lầm con người chân thật đó với cái “hồng hồng trắng trắng”
này. “Hồng hồng” là máu me đỏ đỏ, “trắng trắng” là da thịt, chớ lầm cái này,
khéo như vậy mà tỉnh dậy, tan giấc vô minh thì:
“Ai hay mây cuộn trời trong vắt”,
tan được đám mây vô minh đó, bầu trời trong vắt thì liền thấy rõ:
“Ven trời sương biếc núi một
màu”, lúc đó thì bầu trời sương núi liền một màu xanh hết phân biệt trên dưới
đây kia. Tất cả đồng “một màu”, tức là trước mắt hiện tiền một thể sáng suốt
không phân biệt đây kia. Như vậy, vua Trần Thái Tông cũng nhắc mọi người: “Ai
trong cục thịt đỏ au này?”. Tỉnh giấc chiêm bao này thì mới nhận ra con người
chân thật, đó mới là bản chất thật của mình. Hãy nhớ, cái thật của mình không
phải là cái chúng sinh chiêm bao này, xác định như vậy. Bây giờ thì tất cả đã
tỉnh giấc chiêm bao chưa? Từ nãy giờ đã đánh thức rất lâu rồi mà chưa chịu tỉnh
nữa thì không biết phải nói thế nào? Đó là lẽ thật, mỗi vị nghe nhận hiểu để
luôn quán chiếu khéo làm sao mà tỉnh giấc chiêm bao. Xác định cho rõ:
Thứ nhất là, bản chất thật của
mình không phải cái chúng sinh chiêm bao này mà là cái tánh giác sáng suốt.
Thứ hai là, suốt cuộc đời mình từ
sinh tới tử cũng chỉ là hai giấc chiêm bao chứ không gì khác.
Luôn luôn nhớ như vậy thì tâm cởi
mở rất nhiều. Lâu lâu có buồn vui, phiền não v.v… gì đó thì nhớ cũng là trong
giấc chiêm bao thôi. Tối thì nhắm mắt chiêm bao, sáng cũng mở mắt chiêm bao. Mà
bây giờ học đạo thì mình cần phải mở thêm mắt thứ ba nữa mà tỉnh giấc chiêm
bao. Như vậy thì mới xứng đáng là người học đạo. Mong sao cho tất cả ở đây, mỗi
vị đều tỉnh giấc chiêm bao để luôn sống trong ánh sáng tỉnh thức, cùng gặp nhau
trong ánh sáng Phật mà vươn lên khỏi cái mê lầm, cái chúng sinh chiêm bao này
thì đó mới là con đường đi của mình.