Cuộc sống có ý nghĩa hay không?
Trước khi đặt câu hỏi, chúng ta sống trong một trạng thái hồn nhiên. Nhưng một
khi thắc mắc đó trở thành một câu hỏi thực sự, một khi chúng ta hỏi liệu cuộc
sống có ý nghĩa hay không, đó chính là điểm bất phục hồi. Nếu bảo hiện hữu của
chúng ta là vô nghĩa thì chúng ta trở nên trơ trọi và dễ bị thương tổn. Tất cả
chúng ta đi tìm một cuộc sống có ý nghĩa và có chuẩn đích, nhưng tìm được một
cuộc sống như vậy quả thật khó.
Thoreau[1] sai lầm khi cho rằng
hầu hết chúng ta đều sống trong tuyệt vọng âm thầm. Theo tôi, hầu hết chúng ta
sống một cuộc sống chối bỏ. Tương tự như những trẻ con đi qua nghĩa trang,
chúng ta nín thở khi đi qua bóng tối của của vô nghĩa đang phủ kín cuộc đời của
chíng ta. Hình ảnh được nhà truyền giáo Jonathan Edwards của thế kỷ mười chín
gợi lên trong bài thuyết pháp “Sinners in the Hands of an Angry God” – hình ảnh
bị treo mong manh bằng một sợi dây bên trên hơi nước và lửa địa ngục – khiến
chúng ta cảm thấy đang lơ lửng trên hố thẳm của vô nghĩa. Chối bỏ vẫn còn hơn
là làm cách nào khác: nếu những độ cao quá đáng sợ thì đừng dòm xuống. Làm sao
chúng ta có thể tiếp tục sống nếu chúng ta phải thú nhận rằng cuộc đời là vô
nghĩa?
Đối với những người đã từng kinh
qua vô nghĩa, những lời giải thích là không cần thiết. Đối với những ai chưa
kinh qua, những lời giải thích có nói ra cũng chẳng đủ.
“Tại sao?” là một câu hỏi đơn
thuần và ấu trĩ. Một người nào đó chết, một người bạn vừa sinh ra một đứa bé
tật nguyền, hay chúng ta có đọc về một trận lụt tàn phá ghê gớm ở Indonesia , và
chúng ta hỏi “Tại sao?” Cuốn sách bán chạy nhất năm 1981 của Harrold Kushner
When Bad Things Happen to Good People, được viết sau khi đưa con trai ba tuổi
của ông được chẩn đoán mắc chứng suy hoại, là một trả lời chân thật cho câu
hỏi. Trong những trường hợp như thế, thay vì quan tâm tìm kiếm một giải thích
khoa học hay nguyên nhân, chúng ta đòi hỏi phải có một lý do hay một biện minh.
Vì không thể trả lời câu hỏi “Tại sao” nên những tai ương như thế vẫn không
hiểu được và không có một ý nghĩa nào.
Nếu câu hỏi “tại sao” được nêu
lên trước những mất mát hay thảm trạng cụ thể thì nó cũng được nêu lên khi
chúng ta nhìn vào cuộc sống của chúng ta một cách tổng thể. Liệu cuộc đời của
tôi, với những vui buồn, yêu thương và phản bội, tựu trung đều là vô nghĩa? Nếu
được yêu cầu để biện minh cho cuộc đời mình thì tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi sẽ
nói gì nếu tôi phải viết một bản cáo phó cho chính tôi? Phải chăng đời tôi có ý
nghĩa bởi vì tôi đã sống phù hợp với luật lệ của Thượng Đế, bởi vì tôi đã kiếm
được một tỉ Mỹ kim trong thị trường chứng khoán, hay bởi vì tôi đã tìm ra cách
chữa trị bệnh ung thư?
Khi một người ngồi xe công cộng
đến sở làm hàng ngày thú nhận rằng đời bà ta dường như vô nghĩa, bà ta không đề
cập đến một biến cố hay thảm trạng nào cụ thể, bà chỉ nói một điều gì đó liên
quan đến toàn bộ kinh nghiệm sống của bà. Những câu hỏi liên quan đến sự hiện
hữu của Thượng Đế và sự sống sau khi chết cơ bản là những câu hỏi liên quan đến
ý nghĩa, giả định rằng nếu Thượng Đế và sự sống sau khi chết là có thật thì
cuộc đời của chúng ta có ý nghĩa theo một nghĩa nào đó.
Làm thế nào con người có thể trả
lời câu hỏi liệu cuộc sống của họ có ý nghĩa hay không? Làm thế nào họ tìm được
ý nghĩa trong cuộc sống của họ? Đây là những câu hỏi mà tôi theo đuổi.
Để trả lời câu hỏi về ý nghĩa,
nhiều sách phổ thông lựa chọn một phương án quyết đoán duy nhất. Do đó, chẳng
hạn, người ta định danh những yếu tố của một cuộc sống có chuẩn đích trong kinh
thánh và Ki-tô giáo. Ngược lại, The Search for Meaning nghiên cứu một loạt
những lựa chọn mà con người đã sử dụng để đầu tư ý nghĩa cho cuộc sống của
mình. Như chúng ta sẽ thấy, câu hỏi về ý nghĩa không chỉ có một trả lời. Cách
thức con người khám phá ra mục đích, cách thức họ định nghĩa “một đời sống ý
nghĩa” ra sao, và cách thức họ đạt được cuộc đời đó ra sao khác nhau tùy mỗi
người, và, thực chất đối với cùng một người, chúng cũng khác nhau tùy vào tuổi
tác và hoàn cảnh.
Cách thức ý nghĩa đi vào cuộc đời
của một thổ dân Hoa Kỳ có thể hoàn toàn khác với cách thức nó đi vào cuộc đời
của một khoa học gia đang làm việc cho Dự Án Manhattan. Câu hỏi “Ý nghĩa cuộc
đời là gì?” – hàm ngụ như nó chỉ có một câu trả lời duy nhất – thực ra che đậy
nhiều cách thức phơi bày chủ thể. Vì con người đầu tư ý nghĩa cho cuộc sống của
mình một cách khác nhau, công trình nghiên cứu của tôi không đề nghị hay cổ xúy
một câu trả lời duy nhất nào. Ngược lại, tôi đi ngược lại một bước để xem xét
những cách thức khác nhau mà con người đã tìm cách trả lời câu hỏi, hoặc theo
thần học, triết học, khoa học, hay cách nào khác.
Khi làm thế, cuốn The Search for
Meaning thỏa mãn hai thành phần cử tọa. Thứ nhất, nó nói với những người dấn
thân đi tìm ý nghĩa. Tất cả chúng ta đều muốn trả lời câu hỏi tại sao, y như
tất cả chúng ta muốn tạo ra một cuộc sống có mục đích và ý nghĩa. Đối với một
số chúng ta, những câu trả lời do các tôn giáo cổ truyền cung ứng không còn
hiệu nghiệm nữa hay, tệ hơn thế, dường như chỉ đúng cho những tín đồ cực đoan
và cuồng tín nhất trong số chúng ta mà thôi. Do đó, nhiều người đi tìm những
cách thức mới vừa để hiểu và vừa để trả lời câu hỏi về ý nghĩa.
Lịch sử về vấn đề ý nghĩa cho
thấy những ví dụ vừa cũ vừa mới liên quan đến những phương thức để tìm ra ý
nghĩa trong đời sống của chúng ta. Thứ nhì, cuốn sách đáp ứng những sinh viên
đang nhập môn nghiên cứu ý nghĩa. Ý nghĩa là một câu hỏi trọng tâm và mang tính
cách định nghĩa trong cả tôn giáo lẫn triết học. Hơn thế nữa, đó là chìa khóa
để hiểu được những trào lưu lớn của tư duy Phương Tây. Khi quan sát con người
đã đầu tư ý nghĩa thế nào cho đời mình, chúng ta sẽ thấy họ trả lời ra sao
những câu hỏi khác trong đời họ vậy. Câu hỏi “Tại sao” được nêu ra liên quan
đến những biến cố và đời sống, nhưng, chẳng hạn, nó cũng là câu hỏi căn bản
trong đạo đức: Tại sao thế này mà không là thế khác? Tại sao phải tốt? Ý nghĩa
do đó là một phương thế để sinh viên nhập môn vào các lãnh vực tri thức luận[2],
siêu hình học, và giá trị học[3] của tôn giáo, triết học, và đạo đức học.
Trình bày vấn đề với các sinh
viên dường như không giống như trình bày với những người đang dấn thân trong
một truy tìm cá biệt hơn qua hiện hữu. Quan tâm của các sinh viên về kiến thức
có vẻ mâu thuẫn với hoài bão khai sáng của một tín đồ hành hương. Nhưng, như sẽ
được sáng tỏ trong công trình nghiên cứu này, chủ thuyết thực dụng và hậu hiện
đại đã phá hủy sự phân chia cổ truyền này giữa kiến thức khách quan và chủ
quan. Họ đã cho chúng ta thấy rằng ngay cả một một nghiên cứu khách quan nhất
cũng đầy dẫy những quan điểm và thiên kiến cá nhân.
Vì là một tài liệu nhập môn, cuốn
The Search for Meaning đưa ra những mô tả chính xác và khả tín về những phương
án khác nhau mà con người đã sử dụng để đi tìm ý nghĩa. Nhưng như một công
trình hậu hiện đại, tác phẩm này cũng công khai nhìn nhận rằng động lực nghiên
cứu vẫn là một truy tìm cá nhân. Để gạt bỏ giả vờ khách quan thuần túy, cuốn
sách sẵn sàng chấp nhận những danh xưng như tôi và chúng tôi cùng với phạm vi
tham chiếu mang tính dấn thân, chủ quan hơn mà những từ đó cho thấy. Tôi hi
vọng phương án này sẽ giúp cả hai giới độc giả của tôi – tức sinh viên và những
kẻ dấn thân qua hiện hữu – thấy được rõ ràng hơn mối tương quan chặt chẽ giữa
lãnh vực học giả và định hướng cá nhân.
Vi phạm điều cấm cuối cùng
Nếu thú nhận rằng một bài viết về
tôn giáo hay triết học cũng diễn đạt quan điểm cá nhân thì điều đó vi phạm
những biên giới hàn lâm và văn hóa. Công khai nói về ý nghĩa và vô nghĩa là một
trong những điều cấm cuối cùng. Nghi vấn về ý nghĩa cuộc đời làm cho chúng ta
khó chịu.
Tôi đã khám phá điều này một vài
năm trước đây. Qua buổi ăn trưa với một nhóm kỹ sư điện và nhu liệu điện toán,
có một người hỏi tôi đang đọc cái gì. Tôi ấp úng trả lời là tôi đang đọc về ý
nghĩa cuộc sống, như trong câu hỏi, “Ý nghĩa cuộc đời là gì?” Tiếp theo là một
sự im lặng khó chịu và lúng túng. Trong khi mọi người đang nói về chính trị, xe
cộ lưu thông buổi sáng, và giá nhà thì những lời nói của tôi đột nhiên vô tình
gợi lên một hình ảnh gần như ma quái, hình ảnh mà mọi người đều cảm thấy nhưng
không ai thích thú nhắc đến. Một khi câu hỏi đã được nêu lên, chúng ta không
thể giả vờ là nó không được nêu lên.
Tương tự như khi nói về những đề
tài cấm kỵ khác, nói về ý nghĩa có tác dụng vừa xua đuổi vừa thu hút người
nghe. Những cuộc đàm thoại vể ý nghĩa và vô nghĩa nghe có vẻ khoa ngôn và liều
lĩnh. Nếu người đối thoại kém lịch sự, tôi có thể tưởng tượng họ sẽ nói, “Ông
sắp sửa nói với chúng tôi về ý nghĩa cuộc đời. Có đúng vậy không? Và trong khi
ông nói thế, chắc ông cũng nói luôn về một phương pháp trị bệnh ung thư và một
lý thuyết thống nhất về vũ trụ nữa!”
Kỷ nguyên của chúng đang hoài
nghi và bứt rứt với những tư tưởng trừu tượng khoa ngôn có khuynh hướng trở
thành những từ viết hoa như Chân Lý, Thực Tại, và Ý Nghĩa. Nói đến những thứ này
cũng gây ra cảm thức bối rối như nhiều người cảm thấy tại một đám tang. Chúng
ta có thể tuân theo những nghi thức nghiêm trang và đọc lên những lời cầu
nguyện bất tận cho một sự sống tốt đẹp hơn bên kia cõi chết trong khi thầm hỏi
chúng ta đang cầu nguyện cho ai hay cho cái gì và nghi ngờ chuyện có gì hiện
hữu ở phía bên kia nấm mồ. Vô hình chung chúng ta là những người theo thuyết
duy danh: ý nghĩa là một tên gọi hay một phạm trù, nhưng chúng ta không thể
thắc mắc phải chăng tên gọi đó thực sự hàm ngụ một thực chất nào không, tương
tự như từ ngựa ám chỉ những động vật chạy trong trường đua Kentucky Derby.
Nêu lên câu hỏi về ý nghĩa cũng
làm cho chúng ta bỏ đi vì những ai hay quan tâm đế vấn đề ý nghĩa thường tỏ ra
ngông cuồng. Theo nhận xét của W.B. Yeats[4], dường như:
“Những người tốt nhất thì thiếu niềm tin, trong khi những người xấu
nhất lại đầy cuồng vọng.”
Những tay khủng bố khi bay vào
Trung Tâm Thương Mại World Trade Center và miệng hô vang “Allah Vĩ Đại”, tôi
chắc chắn đầu óc họ thế nào cũng đầy ngập cảm thức về ý nghĩa và cứu cánh. Họ không hoài nghi ý nghĩa cuộc đời; thực
vậy, một cuộc sống tràn đầy ý nghĩa đã đưa họ đến tàn sát và tự sát. Nếu sống
một cuộc sống ý nghĩa có nghĩa là cuồng tín thì chẳng ai có thể trách chúng ta
sao im lặng khi có người đặt vấn đề cuộc đời có nghĩa hay không. Chẳng kém gì
cuộc sống vô nghĩa, cuộc sống ý nghĩa cũng có những hiểm họa của nó.
Đối với những kỹ sư mà tôi đã đề
cập ở trên, cũng có những lý do cấm kỵ. Vấn đề ý nghĩa không mang tính chất
thực tế tức thời như vấn đề giải quyết kẹt xe, tăng số lượng bán ra, hay truy
cập email từ xa. Đây là những câu hỏi thế nào rất quen thuộc với thời đại chúng
ta. Ngược lại, chúng ta thấy khó chịu trước những câu hỏi hạch sách tại sao
liên quan đến thách thức về ý nghĩa. Những câu hỏi có tính cách chiến thuật vẫn
dễ trả lời hơn những câu hỏi có tính cách chiến lược: xác định cách thức để đi
từ Topeka đến Seattle
thì dễ hơn là giải thích tại sao lại quan trọng phải đi từ Topeka
đến Seattle .
Hơn nữa, những nỗ lực để giải
quyết những câu hỏi tại sao dường như bất tận và chủ quan, vì không có một căn
bản thống nhất hay có thể đo lường được, theo đó đánh giá một câu trả lời. Nếu
không có những sự kiện có thể kiểm chứng và dữ kiện có thể đo lường được, những
câu trả lời của chúng ta chỉ dựa trên những cảm nghĩ hay ý kiến độc đoán. Tôi
nói đời có ý nghĩa, người khác nói đời là vô nghĩa, trong khi nhiều người khác
nữa – có lẽ kể cả những người bạn thầm lặng của tôi – sẽ nói rằng câu hỏi tự nó
hoàn toàn vô ích, vì cố hữu không thể giải quyết được. Từ ngữ để nói và để giải
quyết câu hỏi về ý nghĩa bị giới hạn và cấm đoán.
Cuối cùng, nếu nói về ý nghĩa là
vô ích thì đó cũng có nghĩa là oái ăm và phá hoại. Hỏi “Cuộc đời có nghĩa hay
không?” – và thậm chí hơn thế, đưa ra một ý kiến về vấn đề đó – vô hình chung
bộc lộ nội tâm của người hỏi hay trả lời. Nói “Tôi tự hỏi đời tôi chung qui có
ý nghĩa gì không” tức là khuyến khích bạn bè thắc mắc phải chăng bạn đang bị
bệnh suy trầm hay đau khổ. Họ sẽ hỏi ngay, “Có chuyện gì vậy?” Ngôn ngữ hoài nghi
tự nó giả định rằng cuộc đời có ý nghĩa; vô nghĩa, chung qui, có nghĩa là thiếu
đi một ý nghĩa có tính tiêu chuẩn. Tương tự, hỏi cuộc đời có ý nghĩa hay không
là phá hoại bởi vì câu hỏi đó hàm ngụ rằng ý nghĩa mà chúng ta được giả định đi
tìm trong đời được nhận thấy là không có – thứ ý nghĩa theo định nghĩa của cha
mẹ, nhà thờ, nghề nghiệp, văn hóa, và chính trị. Hỏi cuộc đời có nghĩa hay
không là thách thức và phá hoại tính chính đáng của những câu trả lời mà người
khác cung ứng.
Ngược lại, nói “Vâng, tôi nghĩ
rằng cuộc đời có một ý nghĩa và mục đích lớn lao” là chuốc lấy rủi ro bị xem
như một Pollyanna[5] hay một thành viên của một thiểu số ưu đãi không quen biết
đến nghèo khó và bất công. Nêu lên một câu hỏi liên quan đến một sự kiện lịch
sử hay những gì mà Platon nói về nghệ thuật hay đạo đức không gợi ra một trình
độ riêng tư và dấn thân cá nhân như câu hỏi về ý nghĩa sự sống. Chúng ta không
thích nói về vô nghĩa và ý nghĩa bởi vì câu hỏi đó có thể như tự vạch áo cho
người xem lưng. Tương tự như những bàn luận về tình dục và tiền, tôi không thể
nói nhiều về nghi vấn cuộc sống có ý nghĩa hay không mà không nói gì về kinh
nghiệm của riêng tôi. Và như thế, vì sợ tự phơi bày mình với mọi người, nhất là
liên quan đến một đề tài riêng tư nhưng thiết yếu như thế, chúng ta giữ im
lặng.
Ngược lại, nếu chúng ta vốn ghét
nói về ý nghĩa và vô nghĩa thì, tuy nhiên, chúng ta vẫn bị lôi cuốn vào đề tài,
đại để như một nhu cầu sinh học. “Cuộc sống có ý nghĩa hay không?” là một câu
hỏi thiết yếu và không thể lẫn tránh của con người. Nếu chúng ta không nêu lên
câu hỏi đó thì chứng tỏ chúng ta kém đi tính người. Nếu vũ trụ là vô nghĩa thì
thế nào đây? Liệu điều đó sẽ không thay đổi tình thế? Phải chăng khái niệm về
vô nghĩa là một vực thẳm và bên kia bờ vực thẳm đó chúng ta không thể tưởng
tượng được gì cả?
Trên một bình diện phổ quát, sự
kiên trì và kiên định của những người chống đối thuyểt tiến hóa cho thấy họ
cương quyết không chấp nhận sự vô nghĩa hàm ngụ trong đề xuất cho rằng sự hiện
hữu của chúng ta ở đây không có lý do nào tốt hơn hay mục đích nào cao hơn là
sự đào thải tùy tiện. Nếu sự sợ hãi lớn nhất nơi nhưng người theo trường phái
tự do là chủ nghĩa cuồng tín thì sợ hãi lớn nhất của những người bảo thủ là
khái niệm vô nghĩa. Một khi đã nêu ra, câu hỏi về ý nghĩa không thể lẫn tránh
được nữa, và câu trả lời – bất luận chúng ta trả lời thế nào – dường như sẽ
không bao giờ thỏa đáng.
Chúng ta vui vẻ luân lưu trong
cuộc đời ngày này sang ngày khác cho đến khi một người thân của chúng ta chết
đột ngột trong một tai nạn. Những nỗ lực tạo dựng một gia đình hạnh phúc bỗng
chấm dứt trong phản bội và ly dị. Con người trẻ trung và cường tráng, sau đó
lại già nua và bệnh tật. Kinh nghiệm thường dường như thúc ép chúng ta sống vô
cùng tuyệt vọng, nhưng sau đó có người nói, “Anh yêu em” hay “Em yêu anh” hay
cầm tay bạn. Martin Luther King Jr. đứng lên chống lại bất công. Đội bóng
Boston Red Sox thắng đội Yankees ở hiệp bảy và đoạt giải World Series. Phép lạ
của nhứng phép lạ! Đột nhiên, thế giới dường như lành lặn trở lại, tràn đầy ân
sủng, tràn đầy ý nghĩa và cứu cánh.
Câu hỏi về ý nghĩa – hay chính
xác hơn về sự truy tìm hay hoài niệm về ý nghĩa – là trọng tâm của nhiều triết
học, văn học, và thần học của thế kỷ mười chín. Người ta nghĩ về truyền thống
trải dài từ Nietzsche đến Hemingway, Sartre, và các triết gia kế tiếp; thực
vậy, khó mà nghĩ về một nhà văn lỗi lạc nào của thế kỷ hai mươi mà không ưu tư
về câu hỏi trọng tâm đó. Tư thế tối thượng của những tác giả này và sự kiện
nhiều người như thế đã lắng nghe họ chứng minh nỗi khát vọng của thời đại mà họ
thuyết giảng.
Hơn nữa, câu hỏi đúng sai, hiện
hữu của cái xấu, và nhu cầu cứu rỗi là những phần phụ tùy của câu hỏi về ý
nghĩa cuộc sống. Những câu hỏi này có nghĩa gì nếu vũ trụ tự nó là vô nghĩa?
Ngay trong trường hợp không thích công khai nói về ý nghĩa sự sống đi nữa,
chúng ta vẫn phải đọc và ghi nhận những gì kẻ khác nói – từ một khoảng cách an
toàn – tương tự như những người vốn né tránh đề cập đề tài cấm kỵ về tình dục
trong thập niên 1960 lại lén lút suy nghĩ về nó và lén lút đọc Human Sexual
Response của Masters và Johnson[6]. Con người vừa muốn vừa không muốn nói về sự
hiện diện hay khiếm diện của ý nghĩa cuộc sống.
Chúng ta là những sinh vật lưởng thê, đứng giữa cái này và cái kia đồng
thời không phải là cái này mà cũng chẳng phải cái kia
The Search for Meaning đặt tiền
đề trên hai giả định.
Thứ nhất, khả năng thuyết phục
không còn nữa đối với phạm trù ý nghĩa vốn có trong văn hóa của chúng ta – bao
gồm phạm trù do các định chế tôn giáo và lịch sử cung ứng.
Thứ nhì, sống không có ý nghĩa là
điều không thể chấp nhận được.
Do đó cuốn sách này nhìn vào
khoảng trung dung, một vị trí trong đó chúng ta không cảm thấy thoải mái với
những gì có vẻ như là những trả lời sai hay đạo đức giả do văn hóa cung ứng và
cả với một cuộc sống theo lối hiện sinh theo lẽ là một cuộc sống vô nghĩa ngày
qua ngày. Trong cả hai trường hợp, chúng ta mong ước một cái gì hơn thế.
Khi nhìn nhận giả định thứ nhất,
chúng ta đồng thời nhìn nhận một kinh nghiệm về chối bỏ văn hóa và gia nhập
hàng ngũ của những kẻ mà Colin Wilson gọi là “những người ngoại cuộc -
outsiders” trong một tác phẩm nổi tiếng qua đêm khi được xuất bản vào năm 1956
mang tựa đề The Outsider. Bằng mọi lý do, chúng ta đứng chung hàng ngũ với
những kẻ đi đày kia, những kẻ mang bệnh ngứa về ý nghĩa và cứu cánh không thể
xoa dịu bằng thể thao, bằng một nghề thượng thặng, hay những thành công rực rỡ
của con cái. Cho dù tất cả những mong ước của chúng ta trở thành sự thật đi
nữa, chúng ta cũng nhanh chóng trở nên nhàm chán, ngán ngẩm, và bất mãn với số
phận.
Adam và Eve chung qui đã bất mãn
ngay trong Vườn Địa Đàng. Không có giải trí, không phân biệt giàu nghèo, không
liên hệ nào có thể đè nén được giọng nói âm thầm nhưng khẩn khoản, “Rút cục để
làm gì?” Chúng ta và mọi người mà chúng ta quen biết đều sẽ chết và bị xóa nhòa
trong ký ức. Trái đất chỉ là một chấm nhỏ phù phiếm vô nghĩa trong sự trương nở
của thời gian và không gian, tức là của vũ trụ. Như Tolstoy, tôi tự hỏi làm thế
nào con người có thể sống khi nhận thức sự phù phiếm của cuộc đời và sự thờ ơ
của vũ trụ. Phải chăng chúng ta chỉ sống hạnh phúc bao lâu chúng ta từ chối câu
hỏi?
Đương nhiên, như bao nhiêu người
khác, tôi tìm đến tôn giáo để có câu trả lời cho những câu hỏi như thế trong
thời xuân trẻ. Tội lỗi, cứu vãn, chấp nhận chúa Jesus như đấng “cứu tinh” của
mình và mưu cầu “ân điển đời đời” tất cả đều có dính dáng đến câu trả lời, mặc
dù tôi không bao giờ biết chắc chắn bằng cách nào. Ki-tô giáo cung ứng sự an ủi
và ủy lạo cho những người khác; nó đặc biệt không hiệu quả đối với tôi. Tham dự
một buổi hội thảo chỉ để dấy lên nhiều câu hỏi hơn. Cuối cùng, tôi trở nên một
người ngoại đạo đối với Ki-tô giáo, cũng như đối với văn hóa Hoa Kỳ, và càng
ngày tôi càng thấy không có gì chắc chắn về những niềm tin của tôi.
“Chất vấn thẩm quyền” là câu thần
chú đối với thế hệ của tôi. Những niềm tin của tôi về thế giới và về những hư
thực do đó trở nên một trở ngại cho tín ngưỡng. Và đồng thời tôi phải thú nhận
không cảm thấy tội lỗi và cần phải được cứu vớt, hay ít nhất không cần cứu vớt
theo lối cứu vớt có được bằng cách tin Chúa. Nếu tôi không làm điều xấu thì đó
chẳng phải vì sợ sẽ chết cháy dưới hỏa ngục. Tất cả những điều đó chỉ muốn nói
lên rằng tôi không tìm thấy trong Ki-tô giáo một câu trả lời tức thì hay đơn
giản cho câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống.
Trong khi nhận thấy Ki-tô giáo cổ
truyền là khiếm khuyết, không như nhiều người khác, tôi không từ bỏ cuộc truy
tìm ý nghĩa xuyên suốt quá trình tìm hiểu thời trẻ về tôn giáo. Tôi bắt đầu
nhìn sang hướng khác để tìm ra một ví dụ liên quan đến cách thức mà con người
đầu tư ý nghĩa cho cuộc sống của mình – hay chính xác hơn, tôi bắt đầu công
nhận rằng ý nghĩa có thể có những nguồn gốc khác hơn là Ki-tô giáo và những tôn
giáo kỳ cựu. Kết quả, dù không quá khắt khe, tôi thường định nghĩa tôn giáo
theo chức năng như bất kỳ một hệ ký hiệu và nghi lễ vốn cung ứng một định nghĩa
về ý nghĩa và định hướng cuộc sống, bất luận chúng có đến hay không từ những
tôn giáo cổ truyền, triết học, tâm lý học, hay những phương diện nào khác của
một nên văn hóa theo lẽ là thế tục như thể thao và giải trí dân gian.
Tra vấn về ý nghĩa có nghĩa là
một truy cứu tôn giáo, nhưng nó còn là một truy cứu triết học, tâm lý học, và
thần học, theo nghĩa mỗi bộ môn trên nêu lên những câu hỏi tương tự liên quan
đến những gì tạo nên cuộc sống tốt và ý nghĩa, cho dù chúng có trả lời những
câu hỏi kia bằng những phương thức khác biệt một cách cơ bản đi nữa. Tôi đã
quyết định bàn thảo câu hỏi về ý nghĩa bên ngoài những phạm trù tôn giáo cổ
truyền – ít nhất trong bước đầu – đơn giản bởi vì đối với một số người những ký
hiệu và phạm trù tôn giáo cổ truyền không còn hợp thời nữa. (Tôi định nghĩa tôn
giáo một cách siêu hình và do đó cổ điển hơn – và xin xem sự khác biệt – trong
chương 8.)
Cho dù có thích đáng hay thậm chí
trung thực đến đâu đi nữa, ngôn ngữ thần học cổ điển về tội lỗi và cứu vãn,
tiền định và ân sủng, có thể rơi vào những lỗ tai điếc. Trong một nền văn hóa
thế tục, kỹ thuật, con người có thể vớ được một định nghĩa về ý nghĩa cuộc sống
mà không nhất thiết phải đi tìm chúng trong tôn giáo cổ truyền. Nhiều người tìm
cách sống “tâm linh” mà không cần theo tôn giáo nào cả. Câu hỏi về Thượng Đế và
câu hỏi về ý nghĩa do đó có thể phân biệt với nhau: con người có thể tìm ra ý
nghĩa mà không cần hướng về một thần linh cổ truyền. Cuốn sách này do đó bàn về
một truy tìm ý nghĩa đúng hơn là truy tìm Thượng Đế.
Trong tiểu thuyết Moby Dick,
Ishamael bắt đầu phiêu lưu bằng cách mô tả làm thế nào trong tháng Mười Một giá
buốt của tâm hồn, ông thấy mình “vô tình đứng trước những tiệm bán quan tài và
thấy hết mọi đám tang mà tôi gặp”. Tương tự, tôi tự thấy mình vô tình đứng trên
những đoạn văn trong sách đã đọc và trong những mẩu đàm thoại liên quan đến ý
nghĩa và mục đích. Cuốn sách theo sau là kết quả đến từ đó. Những người khác có
thể bị lôi cuốn đến những trang báo hay những phép tính vật lý lượng tử, nhưng
nếu, như tôi, bạn bị lôi cuốn đến những câu hỏi về ý nghĩa thì cuốn sách này
dành cho bạn đấy. Vì chúng ta không thể tin chắc được gì nơi thế giới, vì chúng
ta tự thấy hoang mang tự hỏi tại sao lại có một cái gì đó thay vì không có gì
cả, chúng ta luôn luôn đòi cho được một câu trả lời cho câu hỏi “Làm thế nào
con người – và đặc biệt là tôi – đầu tư ý nghĩa cho đời mình?”
Phương hướng và lộ trình là những
hình ảnh quen thuộc trong lịch sử truy tìm của trí tuệ, kể cả việc truy cứu
phương thức con người đầu tư ý nghĩa cho đời mình. Ý nghĩa không chỉ là cái gì
mà chúng ta đã từng có nhưng nay đã mất; ý nghĩa cũng là cái mà chúng ta luôn
luôn hướng đến. Do đó, tôi thừa nhận những cẩm nang tốt mà tôi đã tin cậy, và
những cẩm nang này được tham chiếu trong trong phần ghi chú và tiểu sử. Với
những đồng hành đó chúng ta không còn là những kẻ lưu đày lẻ loi đơn độc nữa.
Ngược lại, chúng ta trông giống hơn với những người tập sự đang bắt đầu một
cuộc phiêu lưu lớn, những tân sinh đi vào một bí mật lớn.Những gì mà người sơn
cước Pháp Gaston Rébuffat (1921-1985) nói về quá trình trở thành một người leo
núi cũng áp dụng tốt cho một cuộc nghiên cứu về ý nghĩa cuộc sống:
Tôi thường nghĩ về người chỉ đạo
Moulin và cách mà ông ta bắt đầu dạy tôi. Bấy giờ đúng hơn tôi đã leo núi cả
ngàn lần trong cả bốn mùa. Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng núi là thổ địa của
tôi; tuy thế, mỗi lần tôi vượt qua được chướng ngại vô hình, mặc dù “cảm thấy”
rất tốt, tôi luôn luôn để ý thấy hơi run trong lòng. Những gì Moulin “biết”
nhiều năm trước đó thì bây giờ tôi “biết”. Nhưng cho dù tôi có leo hết các núi
qua hết mọi đường thì tôi cũng chẳng bao giờ biết mọi chuyện liên quan đến cái
thế giới mà tôi yêu. Tôi sẽ luôn luôn đi trên đường[7].
Phỏng theo The Search for Meaning
– Dennis Ford
Trịnh Minh Huy
[1] Henry David Thoreau (1817 – 1862) là một tác
giả người Mỹ, một nhà thơ, sử gia, triết gia. Một trong những tác phẩm nổi
tiếng của ông là Walden, một tư duy về lối sống giản đơn trong những môi trường
thiên nhiên; và bài tiểu luận “Civil Disobedience” của ông cổ xúy đối kháng cá
nhân dưới hình thức bất phục tùng chế độ nhằm phản đối tình trạng bất công.
[2] Tri thức luận (Epistemology - tiếng Hy lạp
‘episteme’ = tri thức (knowledge) và logos = khoa học) là lý thuyết về sự hiểu
biết, một ngành của triết học liên quan đến bản chất và phạm vi của nhận thức.
Đề tài tranh luận chính là phân tích bản chất của tri thức và tương quan của nó
với những khái niệm như chân lý (truth), niềm tin (belief), và biện minh
(justification) - tức là lý do tại sao chủ thể có niềm tin nào đó, giải thích
tại sao niềm tin đó là thật, hay giải thích làm sao mà chủ thể đó biết những gì
mình biết. Tri thức luận cũng bàn đến những phương pháp sáng tạo tri thức, cũng
như sự hoài nghi đối với những lý thuyết tri thức khác nhau. Nói cách khác, tri
thức luận chủ yếu giải quyết những câu hỏi như “Tri thức là gi – What is
knowledge?”, “Tri thức có được bằng cách nào?”, “Con người biết được những
gì?”, và “Làm sao chúng ta biết những gì chúng ta biết – How do we know what we
know?”
[3] Giá trị học (Axiology) là bộ môn nghiên cứu
về phẩm chất của giá trị (quality of value) - tức thuộc tính (property) của sự
kiện vật lý hay trừu tượng biểu tượng tầm mức quan trọng của chúng. Bộ môn này
thường bao gồm đạo đức học và thẩm mỹ học (ethics and aesthetics). Một lãnh vực
thường được theo đưổi nghiên cứu là giá trị học thuần lý (formal axiology), tức
là cố gắng đề ra những nguyên tắc về giá trị bằng phuơng pháp toán học. Từ
“axiology”đôi khi được dùng để chỉ giá trị kinh tế (economic value).
[4] William Butler Yeats (1965 - 1939) là một nhà
thơ và viết kịch Ái Nhĩ Lan, và là một trong những khuôn mặt tiên phong của văn
học thế kỷ hai mươi.
[5] Pollyanna là một tiểu thuyết bán chạy nhất
năm 1913 của Eleanor H. Porter ngày nay được xem là một tác phẩm văn chương cổ
điển, trong đó nhân vật mang tên tựa đề trở thành một từ thông dụng để ám chỉ
một người có dáng dấp lạc quan
[6] The Masters and Johnson research team: toán
nghiên cứu gồm William H. Masters and Virginia E. Johnson, tiên phong trong
lãnh vực nghiên cứu về bản chất của đáp ứng tình dục nơi con người và chẩn đoán
và trị liệu những bệnh rối loạn và trục trặc chức năng tình dục từ năm 1957 đến
những năm 1990.
[7] Gaston Rébuffat, “On Snow and Rock”, bản dịch
của Eleanor Brockett (1963; New York :
Oxford University Press, 1968)