Khái niệm Nhị nguyên luận
(Dualisme) được dùng trong nhiều lĩnh vực của tri thức. Bất cứ một lý thuyết
nào xác định sự phân ly không thể thu hẹp được giữa hai loại sự vật thì đều có
thể gọi là thuyết nhị nguyên. Nhị nguyên Triết học xác định sự phân ly giữa thể
xác và linh hồn với người khởi xướng là nhà triết học duy lý Descarte. Trong
đạo đức học, thuyết nhị nguyên xác định sự tách biệt giữa Thiện và Ác. Trong
tôn giáo thì thuyết nhị nguyên tách biệt cái Thiêng và cái Phàm, tồn tại song
song và không phụ thuộc với nhau trong đời sống. Như vậy, ta phải lựa chọn ở
đây một khái niệm nhị nguyên theo nhiều chiều kích để diễn giải vấn đề mấu chốt
trong sự lý giải của tôn giáo về số phận con người.
Vấn đề ấy được đặt ra ngay từ sự
hữu hạn của sinh mệnh con người, sự phân ly không thể lấp đầy giữa cái sống và
cái chết. Đó là một bi kịch vĩnh hằng của nhân thế. Đó cũng là cái khả năng yếu
ớt của con người trước sự giằng xé của cái Thiện và cái Ác. Rốt cuộc, con người
cần đến sự cứu rỗi, sự giải tội, sự giải thoát nói chung. Và chừng nào còn có
những trắc trở của mối bi kịch nhị nguyên đó, thì hầu như vẫn còn có mảnh đất
cho mọi sự suy tư về tôn giáo. Có lẽ không có một lời nào diễn tả với tầm triết
lý sâu xa về cái bi kịch nhị nguyên này hơn là lời của Pascal đã nói từ thế kỷ
17: “Tôi run sợ trước cái im lặng của vũ trụ, và sự lơ lửng của con người giữa
hai cái vô hạn vi mô và vĩ mô”.
Câu nói này hẳn đã báo hiệu một
trào lưu tư tưởng về sau này của nhiều nhà toán học, vật lý học, thiên văn
học... nghĩa là các nhà khoa học tự nhiên, cùng với các triết gia, tạo ra một
cuộc chuyển hướng chủ đề tranh luận về sự hiện hữu của Thượng đế và Thần linh,
sang chiều kích tâm linh của con người, dù là người có tín ngưỡng hay không.
Có thể nêu một sự kiện gần đây
hơn vào năm 1996 đã xuất hiện cuốn sách Dieu et La Sience (Thượng đế và khoa
học), ghi lại cuộc đàm luận giữa một nhà Triết học viện sĩ Hàn lâm Pháp với hai
nhà Vật lý lý thuyết và thiên văn học Nga.
Trong lời nói đầu cuốn sách đó, nhà
Triết học Pháp Jean Guitton đã viết:
“Trong suốt cuộc đời mình, tôi
nghĩ tới một vấn đề đặt ra cho tất cả mọi người: ý nghĩa của sự sống và cái
chết. Xét đến cùng, đó là vấn đề duy nhất mà động vật biết suy nghĩ đụng phải
từ buổi đầu: động vật biết suy nghĩ là động vật duy nhất nghĩ về cái chết, nghĩ
về cái chết của mình. Và để soi sáng con đường của mình trong tăm tối, để thích
nghi với cái chết, động vật rất thích nghi với sự sống ấy chỉ có hai ánh sáng:
một gọi là tôn giáo, một gọi là khoa học”.
Rốt cuộc, chúng ta vẫn trở về với
vấn đề muôn thuở mà ở phương Đông chúng ta quen diễn tả bằng hình ảnh hai cánh
cửa của đời người, cửa sinh và cửa tử. Không ai thoát khỏi hai cánh cửa ấy:
“sinh tử quan đầu mạc năng độ”. Sự khác nhau có lẽ tùy ở cách nhìn, và những
người đạt đạo, chứ không nhất thiết là có tín ngưỡng, sẽ nhìn một cách nhẹ
nhàng hơn là người “tham sinh úy tử”.
Cứ theo chiều hướng đó, thì cuộc
thảo luận về tôn giáo sẽ hướng về vai trò, hoặc là hiệu năng của nó, đối với
sinh hoạt của con người ở trần thế này, hơn là về những bí ẩn siêu nhiên. Đơn
giản hơn, có lẽ con người có thái độ như thế nào với tôn giáo, không phải là do
sự phán đoán rằng các tín điều là đúng hay sai, mà là suy nghĩ rằng tôn giáo
đem lại điều gì cho con người ở đời này, về mặt cá nhân cũng như xã hội.
Ở đây, chúng ta chưa thảo luận về
những điều có lợi hay bất lợi của các tôn giáo, nhất là các nghi thức, các qui
tắc hành vi, tập tục đi kèm với các tín ngưỡng này hay khác. Phải mất cả mấy
ngàn trang viết cũng không nói hết được khía cạnh này. Giữa các tôn giáo lại có
rất nhiều cách khác nhau (ngay giữa Hòa Hảo và Cao Đài cũng khác nhau nhiều trong
các nghi lễ về cái chết chẳng hạn).
Ta hãy thảo luận chủ đề này trên
lĩnh vực thuần túy triết học để thấy rằng, cái bi kịch nhị nguyên rốt cuộc, đã
bao trùm lên chính những tranh cãi bất tận về hữu thần hay vô thần, về Thiện và
Ác, về cuộc sống là có nghĩa hay vô nghĩa... Ta có thể tóm tắt cuộc tranh cãi
này như sau:
Những người đánh giá tôn giáo một
cách tích cực thì nghiêng về chỗ cho rằng, tôn giáo thực sự là một nhu cầu do
bản năng sinh tồn của nhân loại mà ra, nhu cầu khẳng định sự sống và ý nghĩa cuộc
sống, dù rằng rốt cuộc vẫn có cái chết. Có lẽ H.Bergson là người nói rõ quan
điểm này hơn cả khi ông nhấn mạnh rằng, nếu chỉ suy luận theo lý trí, thì một
đầu óc sáng suốt sẽ thấy rằng, cuối cùng, vũ trụ, nhân sinh là một cái gì đó vô
nghĩa. Nếu thế thì mỗi người nên tự hủy cuộc sống của mình, mà cũng nên chấm
dứt sự tồn tại của nhân loại càng sớm càng hay. Không nên để cho cái bi kịch
nhị nguyên đùa dai mãi.
Ví biết phù sinh đời có thế
Thông minh tài bộ thế gia chi
Công thành danh toại chung qui hão
Nhắm mắt buông tay giữ được gì.
Vấn đề không phải là được mất cái
gì mà là một ý nghĩa nào đó để sống và nhất là để vượt lên cái bi kịch nhị
nguyên của cuộc sống. Ý nghĩa ấy có thể là tình thương yêu, là tự giác giác
tha, tự ngộ ngộ tha, là từ bi, là bất tranh, là bất hại, là vô vi trong cái thế
giới hữu vi... Tóm lại, là sự lựa chọn một thái độ sống đến mức chí thiện, và
bằng cách đó, đẩy lùi cái Ác trong chừng mực nào đó có thể, tuy không tiêu trừ
được nó hoàn toàn, vì nó cũng là một phần của thân phận làm người.
Những người đánh giá tôn giáo một
cách tiêu cực về mặt Triết học thì cho rằng, tôn giáo là sự phản ánh hư ảo
trong đầu óc con người, những lực lượng bên ngoài thống trị họ trong cuộc sống,
sự phản ảnh trong đó, các lực lượng trần thế mang hình thức các lực lượng siêu
phàm.
Thuyết vô thần là lập trường
triết học của thái độ phê phán tôn giáo. Đặc biệt là trong xã hội có giai cấp,
mà việc thờ tôn giáo gắn liền với sự bóc lột và cảnh bần cùng của quần chúng.
Xóa bỏ được chế độ người bóc lột, áp bức người, thì tôn giáo mất đi một cơ sở
quan trọng để đứng được trong lịch sử. Vậy tôn giáo rồi sẽ mất đi. Nhưng việc
tôn giáo mất đi không phải là một quá trình tự động, mà phải trải qua quá trình
giáo dục lâu dài cho quần chúng. Tác dụng tiêu cực của tôn giáo là ở chỗ nó làm
phương hại cho việc tự thể hiện chính mình của con người, lại thêm cái tác hại
là làm cho con người sao nhãng những việc đem lại hạnh phúc thiết thực bằng
cuộc đấu tranh thực tế để đi tìm sự an ủi bằng ảo tưởng, nhất là ở các tầng lớp
bị áp bức. “Hạnh phúc là đấu tranh” đó là một châm ngôn trang bị một nghị lực
phi thường cho con người trong đời sống trần thế.
Thật ra, một đường lối “giải
thoát” và một đường lối “giải phóng” không tự chúng là đối nghịch với nhau. Cả
hai đều có một mục tiêu ít nhiều gặp nhau trong sự giảm thiểu những đau khổ, dù
nhấn mạnh vào nguồn gốc tâm linh hay nguồn gốc xã hội của các đau khổ ấy. Chỗ
khó khăn có thể là ở những khái niệm “hữu thần” và “vô thần”. Phần nào, khái
niệm Thần luận mà chúng tôi đã cố ý bàn nhiều từ trước đến giờ, có thể là một
quan điểm nhận thức luận giúp giải tỏa các khó khăn ấy.
Nhưng đến đây, chúng ta đã vượt
khỏi ranh giới của nhận thức luận để bước qua ranh giới của Đức tin, mà với Đức
tin thì không thể hoàn toàn lấy lý trí mà phán xét được. Sự thỏa thuận giữa tin
và không tin, giữa các niềm tin khác nhau, nhiều lúc chỉ có thể là sự dung hòa,
tôn trọng lẫn nhau và tránh mọi điều kì thị.
Thiết tưởng, cũng nên nhắc đến
một tiếng nói rất đáng nể trong bất cứ cuộc tranh luận nào khi chứng minh cho
sự tồn tại của Chúa-đó là tiếng nói của B. Pascal- nhà toán học và là một nhà
sáng lập ra Thuyết xác suất. Trong cuốn “Những suy tưởng”, ông đưa ra một sự
đánh cuộc nổi tiếng của mình khi chỉ ra rằng: nếu bạn không có khả năng giải
quyết vấn đề tồn tại của Chúa, thì hãy xem xét thận trọng rằng, chúng ta có thể
có lợi hay có hại gì nhờ niềm tin hay không có niềm tin.
-Nếu bạn tin vào Chúa và Chúa tồn
tại, thì cái lợi của bạn sẽ là hạnh phúc vĩnh cửu.
-Nếu bạn tin vào Chúa, còn Chúa
không tồn tại thì bạn không mất gì.
-Nếu bạn phủ định sự tồn tại của
Chúa, và Chúa thật sự tồn tại thì bạn đánh mất khả năng có hạnh phúc vĩnh cửu.
-Nếu bạn phủ định sự tồn tại của
Chúa và Chúa không tồn tại, bạn không có lợi gì.
Trong những lập luận hơi vẻ bông
đùa của Pascal, ta có thể thấy rằng tự do đức tin là một vấn đề hoàn toàn của
cá nhân, mỗi người tự quyết định lấy từ lợi ích thuần túy tâm lý của mình, mà
không bắt buộc phải chứng minh theo bất cứ một nguồn tri thức nào.
Như vậy, gắn liền với Chúa, có
nhiều cách thể hiện đức tin ấy trong hành động. Và ta không nên hỏi đâu là
lôgíc trong đức tin mà cần hiểu hành động ấy thế nào.