Tai họa đến với con người chúng
ta, không phải từ những suy tưởng siêu hình mà từ những suy tư thực dụng của
khoa học.
Các nước phương Tây đã biến những
suy tư khoa học, thành tư duy thực dụng, khiến cho môi trường sống của con
người và loài vật càng ngày càng trở nên ô nhiễm và độc hại.
Khoa học thực dụng của Tây phương
đã biến con người trở thành vô dụng của sự sống và đã khiến cho con người chạy
đua và bám lấy sự sống một cách tội nghiệp, như những bầy thú chạy đua và bám
lấy những khúc xương khô để khới gặm.
Trong xã hội thực dụng ấy, con
người không còn là người nữa, con người là những dụng cụ giây chuyền để sản
xuất, là một bộ phận sản xuất của nhà máy, của xí nghiệp, của nông trại. Với
một xã hội như vậy, con người không còn có thì giờ để làm cha, làm mẹ, làm vợ
chồng, làm anh em với nhau; không còn có thì giờ để suy tư về tốt và xấu; công
việc cá nhân, gia đình, tình cảm, thể hiện đức tin, tất cả đều dồn vào ngày chủ
nhật.
Và tất cả cuộc sống con người chỉ
là vậy, thì những tư duy thực dụng của khoa học Tây phương đưa con người chúng
ta đi về đâu? Phải chăng, chúng đang đẩy con người đi đến với đời sống vô cảm.
Bệnh vô cảm là cơn bệnh khủng
khiếp nhất của con người, nó còn nguy hiểm hơn cả ngàn lần bệnh HIV.
Do bị mắc bệnh vô cảm, nên con
người không còn biết sống là gì, không còn biết thiên nhiên là gì, có đâu mà có
được những suy tư về sự sống, để có khả năng tiếp nhận sự sống một cách có ý
nghĩa.
Vì tham lam, vì tư duy thực dụng,
con người đã sử dụng khoa học kỹ thuật để bóc lột thiên nhiên, bóc lột loài
vật, thực vật, đất đai và bóc lột đồng loại, khiến cho thế giới con người ngày
càng trở nên bệnh hoạn và điên dại, và người chủ trương bóc lột ấy lại càng
bệnh hoạn và điên dại hơn.
Biết lập đức
Càng văn minh vật chất, con người
lại càng sinh ra những sinh hoạt hưởng thụ thấp kém và phiền toái.
Càng giàu có vật chất, con người
lại càng sinh ra những lo lắng, sợ hãi, thất vọng và khổ đau.
Trong mọi sự sinh hoạt của xã hội
con người, ta hiếm thấy xảy ra ở nơi một người, vừa giàu có vật chất mà lại vừa
giàu có tâm hồn. Phần nhiều, người giàu có vật chất là người rất nghèo nàn về
tâm hồn và rất dễ khiếm đức.
Nên, những bậc có trí trong đời,
thường trọng đức mà khinh tài, nhưng những kẻ vô trí trong đời thì coi trọng
tiền tài mà coi thường đức hạnh và nhân nghĩa.
Đức hạnh bị khinh thường, thì xảo
trá điêu ngoa, gian dối phát triển, đạo đức xuống cấp, nhân cách hủ bại, thuần
phong rách nát.
Nên, những bậc có trí trong đời
dùng đức để lập thân. Họ biết lập đức trước khi lập thân và lập ngôn; kẻ ngu
trong đời thì lập ngôn trên xảo trá và lập thân trên gian tà, khiến cho thân
càng ngày càng sa đọa, và ngôn càng ngày càng trở nên nham hiểm và vô luân.
Bàn tay thảnh thơi
Một người thương ta có gốc rễ từ
lòng tham của họ, khiến cho ta không an lạc, không thảnh thơi và nếu ta thiếu
chánh niệm tỉnh giác, năng lượng của sự thương yêu ấy thẩm thấu vào trong ta,
làm cho ta sống trong giẫy giụa và chết trong thất vọng, khổ đau.
Và một người thương ta có gốc rễ
từ hỷ và xả, khiến sự an lạc của ta sinh khởi một cách tự nhiên; giúp ta sinh
khởi niềm tin, và khiến tuệ giác trong ta càng ngày càng sáng ngời, nên mỗi
ngày đi qua là mỗi ngày làm cho sự tự do trong ta lớn lên, khiến cho ta nhìn
cuộc đời bằng con mắt tự do, và mọi vật đều có sự thảnh thơi khi bàn tay ta
chạm đến.
Phật và Thượng đế
Ta đã có thể gọi danh hiệu Đức
Phật với một ngày cả ngàn lần, và ta cũng đã gọi tên Thượng Đế qua những đêm
thâu cầu nguyện, nhưng tất cả các Ngài đều im lặng đối với ta, để cho hạt giống
Phật trong tâm hồn ta sinh khởi và quyền năng sáng tạo của Thượng Đế trong ta
biến thành hiện thực.
Khi trong đời sống của ta không
còn vô minh, hận thù và quyết đoán sai lầm, thì ta là Phật. Và trong cuộc sống,
ta có chủ quyền và có khả năng sáng tạo thì ta là Thượng Đế.
Như vậy, Phật và Thượng Đế không
phải là ai xa lạ mà chính là tâm hồn trong sạch và khả năng sáng tạo trong mỗi
chúng ta!