
Vô minh là thiếu khả năng hiểu biết,
chấp tự ngã của mình là thường hằng, bất biến, coi nó là điểm trọng yếu trong
thể trạng con người và có thể định rõ con đường cho chúng ta thấy được vạn hữu
vũ trụ trong thế giới ngày nay. Nó dẫn dắt mọi hành động vì quyền lợi riêng tư
của chính nó, mà thực chất chỉ là ảo tưởng. Chính ảo tưởng của tự ngã là nguyên
nhân gây ra khổ đau. Chúng ta muốn bảo vệ tự ngã từ những nguy hiểm của dòng
đời, từ những biến động trong cuộc sống...
Có mấy ai nhận biết được tất cả
vạn vật trong vũ trụ luôn biến dịch không ngừng. Trong vô minh, chúng ta bị
tách biệt ra khỏi bản chất của con người và thường bị nhấn chìm trong tư tưởng
sai lầm của tự ngã. Những tín đồ Phật giáo tin rằng tâm của tất cả chúng sanh
hoàn toàn liên hệ hỗ tương lẫn nhau, hoặc là có ý thức nhận biết hoặc không có.
Bởi vì mỗi chúng sanh là mỗi mức độ hoạt động và hệ thống tiếp nhận trong xã
hội liên hệ với nhau tạo nên nền hòa bình thực sự, nhưng mỗi người phải ở một
mức độ thích hợp do chính con người xây dựng nên. Nếu tin mù quáng về vô minh
với tâm chân thật, chúng ta luôn lệ thuộc nhau và tiếp cận nhau, mà căn bản vô
minh đã nắm giữ sự tách biệt giữa hai phạm trù thiện-ác, được-mất, hơn-thua,
ngã-vô ngã, tham-vô tham, v.v… Nếu chúng ta không nhận biết rõ ràng thì sẽ rơi
vào tà kiến si mê. Như vậy, nhờ thực hành thiền quán và thâm hiểu lý Duyên
khởi, chúng ta mới có thể thoát khỏi mọi ràng buộc của thế gian. Bởi vì, vô
minh là một trong Mười hai nhân duyên, không phải là nguyên nhân đầu tiên, mà
là yếu tố đầu tiên quyết định tất cả mọi hoạt động của mười một chi phần còn
lại.
Do đó, theo Aldous Huxley: “Những
ai đã lầm lạc tin tưởng một nguyên nhân đầu tiên thì nhất định không bao giờ có
thể trở thành một nhà khoa học. Tuy nhiên, vì không biết khoa học là gì nên họ
không ngờ họ đánh mất một điều gì đó. Ở phương Tây, lối giải thích các hiện
tượng bằng cách qui chiếu về một nguyên nhân đầu tiên quả không còn hợp lý nữa,
dầu ở trường hợp nào. Chúng ta không bao giờ thành công trong việc cải biến một
kỷ nguyên sắt thành một kỷ nguyên vàng, cho đến khi nào chúng ta từ bỏ tham
vọng tìm ra một nguyên nhân duy nhất cho tất cả mọi phiền não trong đời và chấp
nhận sự hiện hữu của nhiều nguyên nhân đồng tác thành trong một lúc, chấp nhận
sự liên hệ mật thiết, phức tạp, tương ứng của hành động và phản ứng của hành
động”. (Ends and Means - London )
Học thuyết chính của đức Phật về
“Duyên khởi” là động lực giúp cho các hiện tượng vạn vật trong vũ trụ có mối
tương quan mật thiết với nhau. Sự hiểu biết thấu đáo và sự thực hành chuyên
nhất sẽ giúp chúng ta vượt ra khỏi định kiến ích kỷ do tham, sân, si gây nên.
Do đó, sự nhận biết về trạng thái này là triết lý Phật giáo quan trọng nhất đạt
đến hòa bình, an lạc ngay trong hiện tại, nhưng đây chỉ là điểm khởi đầu. Tuy
nhiên, không ai có thể đi ngược dòng thời gian, dầu là khởi điểm của một giọt
nước, một hạt sương… cũng phải có nơi phát xuất, huống chi là loài người. Vì đó
là thực thể thường tồn, bất di bất dịch, mà cũng là một sự trở mình không dứt,
một sự trôi chảy luôn tiếp diễn của những biến đổi không ngừng.
Hơn thế nữa, tất cả vạn vật trên
thế gian đang bị thiêu đốt. Tất cả đều nằm trên ngọn lửa cháy bừng. Và cái “tất
cả” ấy là gì? Tại sao đang bị thiêu đốt? Đó chính là ái, thủ, hữu... sanh ra
tham vọng và quyền lực. Ngày nào còn nhiên liệu thì ngọn lửa vẫn ngấm ngầm bên
trong, càng châm nhiều nhiên liệu thì lửa càng cháy mạnh. Phải chăng, ngọn lửa
của cuộc sống thực tại cũng đang cháy ngầm dường thế ấy. Con người hầu như
không biết đủ, hằng ngày chỉ sống trong tham cầu và hưởng thụ. Ngày nay, nếu xã
hội toàn là những thành phần tư lợi cho riêng mình thì người dân có được ấm no
không? Hoặc nếu được thỏa mãn tham vọng, con người càng tự ràng buộc mình vào
bánh xe luân hồi, càng bị giày vò tâm trí và khổ sở quằn quại thì mang lại lợi
ích gì cho xã hội?
Như thế, con đường hướng đến hòa
bình, trong thời đại hiện nay, Phật giáo đã đi vào cuộc đời, mang lại lòng tin
trong chánh pháp và tạo dựng mối quan hệ với thế giới quanh ta. Một số người
hiểu sai lầm về đạo Phật, cho rằng Phật giáo tách rời xã hội, không mang lại
ích lợi cho quần chúng hoặc nếu có chỉ ở mức độ bình thường mà thôi. Chính
những ý tưởng đó là hậu quả nghiêm trọng về sự thất bại trong mọi lĩnh vực khi
tiếp xúc với cuộc đời, điều này hoàn toàn trái ngược với chân lý của đạo Phật.
Như vậy, làm thế nào để người dân được an cư lạc nghiệp?
Ở đây, chỉ chú trọng đến quyền
lực và mâu thuẫn được xem như là kết quả nhận định về vô minh của mỗi cá nhân.
Bên cạnh đó, việc quan sát xã hội để giải quyết những mâu thuẫn, thì Phật giáo
đã ứng dụng giáo lý của đức Thế Tôn vào quần chúng nhân dân bằng những buổi
thuyết pháp hợp với căn cơ trong thời đại hiện nay. Đặc biệt, ở phương Tây
thường gọi là Phật giáo nhập thế, các bậc Tôn túc lãnh đạo Phật giáo thường
quan tâm đến những người Phật tử có tâm huyết với đạo Phật, chính quý ngài là
những người tìm cầu giải pháp thích hợp bằng các buổi tọa thiền hoặc thuyết
pháp ngay trong nhà tù… ứng với mỗi tình huống xảy ra, ảnh hưởng đến nỗi thống
khổ và bất bình của người dân. Phương pháp này thích ứng với hoàn cảnh mới của
Đạo đức học Phật giáo.
Phật giáo nhập thế nhận biết và
tìm ra nguyên nhân gây ra khổ đau cho con người, chính là tham ái và vô minh.
Việc mở rộng quan niệm xóa bỏ giai cấp về sự bất bình đẳng, chiến tranh và bạo
lực trong xã hội, kinh tế cũng như chính trị đã giảm bớt phần nào quan niệm
phân chia giai cấp, bất bình đẳng đối với hạng người cùng đinh. Trước sự phân
tích tiến trình Phật giáo phát triển, đạo Phật đã tìm ra con đường hợp với
chánh pháp qua các hoạt động lợi ích xã hội, là chí nguyện cao cả của người con
Phật. Vì thế, chúng ta luôn trau dồi tinh thần truyền thừa chánh pháp; phương
cách giải quyết các mâu thuẫn làm xung đột quyền lợi của người dân; làm thế nào
để xã hội luôn tạo điều kiện thuận tiện cho Phật giáo hoạt động ngày càng thăng
hoa trên con đường Hoằng pháp lợi sanh?
Ngày nay, Phật pháp truyền bá đến
nhiều khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt Phật giáo đang phát
triển mạnh mẽ ở các nước phương Tây. Riêng tại Việt Nam , Tăng Ni Phật tử cũng đã thực hiện nhiều
chuyến hoằng pháp đến vùng sâu vùng xa vào những ngày lễ lớn như Đại lễ Phật
đản, lễ Vu Lan báo hiếu. Phật giáo Việt Nam cần phát huy hơn sứ mệnh hoằng pháp
trong tinh thần “vị tha vô ngã”, để đem lời Phật dạy đến mọi vùng miền trên đất
nước Việt Nam, nhằm đem lại niềm an lạc và hòa nhập xã hội cho những ai đang
khao khát được nghe pháp âm vi diệu của đức Từ Phụ. Ở những vùng hẻo lánh xa
xôi, nên tổ chức nhiều buổi học giáo lý dành cho Phật tử nhằm mở mang và trau
dồi kiến thức Phật học căn bản như ăn chay, niệm Phật, thọ Bát quan trai, thọ
Tam qui Ngũ giới… Đó là nền tảng cho hàng Phật tử gieo thiện căn với Phật pháp.
Đặc biệt, đối với những vị Tăng
Ni trẻ ngày nay có khả năng truyền thừa chánh pháp nên tự nguyện tham gia tổ
chức bằng cách dạy giáo lý cho các em gia đình Phật tử, cùng chia sẻ những kinh
nghiệm trong tu học cũng như kinh nghiệm sống hợp với tâm lý của tuổi trẻ ngày
nay, để Phật pháp được lưu truyền mãi ở thế gian. Nhất là các lớp huấn luyện
dành cho các Huynh trưởng được tổ chức rộng rãi bao gồm tất cả các quận, huyện
trong thành phố nói riêng và cả ba miền nói chung. Từ đó, các huynh trưởng có
thể tổ chức thành từng nhóm, phân chia trách nhiệm hợp với từng địa phương để
sinh hoạt Gia đình Phật tử ở vùng sâu vùng xa trong bước đầu mới thành lập. Tuy
nhiên, cũng cần sự khích lệ tinh thần của các bậc Tôn túc lãnh đạo và tạo điều
kiện thuận lợi cho các huynh trưởng phát huy vai trò của mình. Thiết nghĩ,
những phương hướng đề xuất trên nên được thực hiện và duy trì mạnh mẽ qua cái
nhìn khách quan trên tiến trình phát triển của Phật giáo hiện nay.
Như vậy, toàn bộ giáo lý căn bản
không ngoài lý Duyên khởi, từ vô minh đến lão tử là một chuỗi móc xích tạo ra
khổ đau mà chúng sanh cứ mê mờ chấp là thật có nên không thể giải thoát ra khỏi
định kiến sai lầm. Khi chúng ta ứng dụng giáo lý Duyên khởi hợp với thời đại,
khế lý khế cơ, có sức thuyết phục cao trong nhiều lĩnh vực thì việc cải thiện
xã hội, hòa hợp dân tộc là điều tất yếu và đạt hiệu quả thích ứng. Ðối với
người Phật tử thâm hiểu giáo lý của đức Phật, niềm lo âu về đời sống hẳn không
phải chỉ tìm cầu miếng cơm manh áo, đến chùa để tranh luận suông hoặc mãi mê du
hành đến tận thế giới ảo tưởng cao xa kỳ lạ, mà là thành đạt hạnh phúc thật sự
và thoát khỏi mọi đau khổ chính là nhờ thực hành giáo lý Duyên khởi. Như vậy,
Duyên khởi đề cập đến nguyên nhân gây ra khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau
- là quan niệm chính yếu của Phật giáo, và cũng là con đường dẫn đến hòa bình,
an sinh xã hội.
Tuệ Giác
Nguồn: Tập
san Pháp luân 64