Ruộng hoang vườn rộng còn chi không về!
Đào Tiềm – dịch
Theo quan điểm Phật học, sự sống
là toàn thể thế giới từ ái và cộng sinh gồm cả thế giới hữu tình lẫn vô tình,
trong cách nhìn chân thực dưới tác động của vô thường và không tồn tại cái ngã
có tự tính chân thực nào cả.
Từ ngàn xưa, thuở còn hồng hoang
thời ăn lông ở lỗ, vấn đề đặt ra cho con người là hiểu biết thế giới chính mình
và thế giới chung quanh. Thế nhưng, khả năng hiểu biết qua tri giác lại chỉ là
hữu hạn trong khi nhu cầu sống cũng như vũ trụ sống lại vô cùng. Các câu hỏi:
ta từ đâu đến đây và từ đây ta sẽ đi về đâu, chỉ là chuyện “chiêm bao nắm vô
cùng ngón tay” (Bùi Giáng). Đức Phật đã nhiều lần giữ im lặng và mỉm cười trước
những câu hỏi siêu hình đại loại như thế Ngài thường hay trả lời: Pháp của ta
là pháp cứu khổ Đạo của ta là đạo giải thoát.
Trong thế giới tương duyên, mỗi
con người đều có hai đời sống vừa mang tính cá thể vừa mang tính cách cộng
đồng. Nói cách khác, đó là đời sống nội tâm và đời sống vật chất bên ngoài. Hai
đời sống này có quan hệ chặt chẽ với nhau.
· Thế giới vật chất hay nói rộng
là thế giới vật lý, luôn luôn có vai trò cung ứng những nhu cầu cần thiết cho
đời sống con người. Con người tồn tại được là nhờ thiên nhiên và chịu sự tác
động của các định luật của thiên nhiên. Các định luật này vận hành theo cách
riêng của nó, con người nếu thích ứng được thì sống còn, đi ngược lại thì sẽ bị
diệt vong. Người xưa có nói: “Thuận thiên dã tồn, nghịch thiên dã vong” là vậy.
Thế nhưng, với tư cách là con
người, muốn dùng tự do ý chí để quy định sự sinh hoạt của chính mình nên muốn
thoát khỏi các định luật đó để kiến tạo một thế giới tự do cho mình. Cùng với
sự phát triển của nền khoa học và công nghệ, bí mật của thế giới tự nhiên ngày
càng được khám phá, được phơi bày dù chỉ là một phần nào đó. Con người bắt đầu
trở nên cuồng vọng. Chủ nghĩa nhân loại trung tâm (anthropo – centrism) của nền
văn minh Kitô giáo vốn một thời đã đưa con người lên vị trí chúa tể của muôn
loài, đã cổ xuý tư tưởng con người xem tự nhiên như chướng ngại của tự do và họ
tìm mọi phương cách thực hiện các biện pháp mục tiêu tư lợi hay chinh phục nó.
Chủ nghĩa nhân loại trung tâm, đã
trở thành nguồn gốc của nhiều vấn đề xã hội hiện đại dẫn đến sự đối lập giữa ta
và người, giữa thiên nhiên và con người, gây ra sự tàn phá trên qui mô lớn
trong trật tự sinh thái nơi ngôi nhà chung của con người và các loại vật khác
tồn tại.
Tất cả những gì thiên nhiên ban
tặng chính là yêu cầu căn bản nhất phục vụ sự sống cho muôn loài. Tỉ như không
có lương thực, nước và dưỡng khí liệu chúng ta tồn tại được bao lâu, trái lại
không có vi vi, tủ lạnh, xe hơi… chúng ta vẫn cứ sinh tồn.
Trong một thời gian thật dài,
hàng chục thế kỷ gần đây, ảnh hưởng tư tưởng duy vật luận phương Tây: tư tưởng
cho rằng vật chất quyết định ý thức, vật chất chiếm lĩnh vị trí cao hơn cả.
Việc chạy theo lợi ích vật chất để trở thành mục đích tối thượng của cuộc sống,
dần dà không biết tự lúc nào con người đã cuốn mình vào con lốc xoáy của trạng
thái vật chất hoá.
Sự biến thái này, đồng hành cùng
với những thành tựu rực rỡ của suy tư khoa học vốn là ân huệ của trí tuệ con
người, đã đẩy nhanh nền kỹ thuật công nghệ lên đỉnh cao phục vụ đời sống. Sự
thật này đã phô diễn một trận đồ xã hội: con người luôn luôn tiếp tục đua tranh
duy trì sự tăng trưởng thu nhập nhằm thoả mãn các dục vọng về nhu cầu vật chất,
gia tăng sản xuất, gia tăng mua sắm tiêu dùng… và phải kể thêm gia tăng chạy
đua vũ trang, sản xuất vũ khí hiện đại, đối đầu nhau trong sự cạnh tranh quyền
lợi bất tận và ngày càng ác liệt. Rốt cuộc lại, môi trường sống phải dung chứa
đủ loại yếu tố ô nhiễm, tạo sự khủng hoảng môi sinh toàn cầu như hiện nay và
các nguồn tài nguyên cạn kiệt dần không có khả năng tái tạo trong một tương lai
gần.
Vạn vật trong trời đất tạo nên
một chỉnh thể hữu cơ. Các thành tố bộ phận đều có chỗ dụng của nó và làm điều
kiện cho nhau trong hình thái tương tức tương nhập. Chẳng hạn, thông thường
chúng ta sợ hãi giông bão, sấm sét và cho là thiên tai. Chẳng hạn sấm sét tuy
gây hoả hoạn nhưng nó có thể chế tái Nitơ trong không khí thành hợp chất của
Nitơ mà thực vật hấp thụ, khiến thực vật trở thành nhà sản xuất các thứ cần
thiết cho sự sống.
Lại nữa, lúc trái đất hình thành,
khí quyển chỉ có thành phần carbon diôxit, sunfat điôxit…. Về sau nhờ vào loại
tảo, thực vật hấp thụ ánh sáng tạo ra tác dụng quang hợp chế tác thành
Carbohydrate, phóng oxy vào khí quyển tạo nên môi trường sống…
Ngay như, phân tử oxy trong không
khí, ở tầng cao bị năng lượng mặt trời chế tái thành Ozone, phân bố cách mặt
đất cỡ 300 ngàn cây số, tạo nên lớp bọc vòng ngoài khí quyển che chắn tia tử
ngoại đến mặt đất gây nên những tác hại môi trường làm cho nhiệt độ trên bề mặt
trái đất tăng lên. Và còn có rất nhiều trường hợp tương tự như vậy.
Mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên trở nên ngày càng đối lập theo cách nhìn của nhị nguyên luận. Dưới
sự điều động của dục vọng, nhân loại dường như xem việc chinh phục thiên nhiên
là một quyền lợi hiển nhiên nên không ngừng tìm kiếm trong đó những gì có thể
thoả mãn nhu cầu. Thế nhưng nhu cầu con người do lòng tham là vô hạn.
Hệ luỵ tất yếu của sự thật này là
đời sống con người quay quanh trục xoay đồng tiền và đồng tiền đã chi phối mạnh
mẽ trong quan hệ nhân sinh, làm tha hoá cùng cực đến đạo lý.
“Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Nguyễn Du
Thi hào Nguyễn Công Trứ, một thời
lận đận trong khoa bảng, giàu chí khí trong ngôn luận và trong văn chương. Ông
ra làm quan khá muộn màn, đổ cử nhân văn 42 tuổi. Do quan lộ gập ghềnh, thời
hàn vi dai dẳng, ông đã trải nghiệm sâu sắc thế thái nhân tình nên lời thơ có
phần trào lộng:
“Tiếng xỏng xảnh đầy trong trời đất
Thần cũng thông huống nữa là ai?
Long đồ, nghĩ cũng nực cười!”
Rất gần với thế hệ chúng ta,
Nguyên Sa vừa giảng dạy triết học, vừa là một nhà thơ, có cuộc sống nhiều thuận
cảnh trong xã hội tiêu thụ nhưng ông vẫn thấy được cái mặt trái của đời sống
thực dụng
“Có thể đời đã đưa tôi vào những giảng đường
Dạy tôi đo hành tinh bằng đường đi ánh sáng
Đo tình yêu bằng đơn vị tiền tài…”
Đến lượt nhà thơ nổi tiếng của
đất Sài Gòn hoa lệ, cũng phải ngậm ngùi xót thương cho “máu lạnh” của thói đời
cân – đo – đong – đếm; Vũ Hoàng Chương viết:
”Một sớm thu tàn chị lẳng lặng
Bước xuống đò ngang không chọn thuyền”
Để rồi
“Tiếng gọi phồn hoa một buổi sớm
Đã cuốn chàng đi chẳng trả về”
* * *
· Thế giới nội tâm là một thế
giới phức tạp đầy những tham vọng, chất chứa trong không gian tự thân những
dinh dưỡng lẫn những độc tố. Thế giới đó được mô tả như một dàn nhạc giao hưởng
có âm thanh trầm bổng, du dương réo rắc theo các tần số dao động khác nhau.
Nhà thơ Huy Cận viết “Nhạc sầu”
tặng Nguyễn Gia Trí, bài thơ quá tuyệt hảo về nghệ thuật và về sự truyền tải
cảm xúc. Ban đầu là cảm xúc man mác buồn của ly biệt, nhưng rồi cảm xúc len lỏi
vào tận chiều sâu, cảm ứng với chính rung động trong sâu thẳm của tác giả, mang
vết thương tật của con người hàng trăm năm bị áp bức nô lệ, đói khổ và chiến
tranh trong thân phận người và thân phận dân tộc.
“Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy
Xe tang đi về tận thế giới nào?
Chiều đông tàn, lạnh xuống tận trời cao
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.”
Và:
“Tiếng nức nở gửi gió đường quạnh quẻ
Sầu chi lắm trời ơi! Chiều tận thế.”
Ta thử nghe hai câu thơ của Hoàng
Cầm
“Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ, võng đưa rầu rầu”
Đó là thế giới nội tâm. Trên quan
điểm của Đạo Phật, đời sống vật chất thể hiện qua hiện tướng trong cuộc sống
nhưng nó không giữ vai trò vận hành đời sống, trái lại đời sống nội tâm làm
công việc đó. Dân gian hay nói lưu truyền từ xưa đến nay: “Quen sợ dạ, lạ sợ áo
quần” theo nghĩa đó.
Thế giới nội tâm được nối kết qua
bốn vấn đề: cảm xúc, ảnh tượng của tri giác, sự tạo tác của tâm thức và biểu
hiện trên mặt ý thức. Hạnh phúc hoặc khổ đau, giải thoát hay trầm luân, đều có
nguồn gốc từ đó.
+ Tâm thức là một thực tại có ý
nghĩa bao quát. Đôi khi còn gọi là tâm, là thức, tuỳ theo dụng của nó, nhưng
trên đại thể thì không chia cách. Nó có khả năng nhận biết và đồng thời là kho
chứa ký ức của con người.
+ Sự tạo tác của tâm chính hoạt
động tư duy, suy nghĩ miên man không dứt, tạo nên dòng vận hành của ý thức mang
theo những thành kiến, lo âu, sợ hãi, hy vọng, thất vọng, vui, buồn.v.v..
+ Ảnh tượng của tri giác gồm
những khái niệm, hình ảnh, ngôn ngữ, kỷ niệm. v.v. biểu hiện trong âm thầm,
lặng lẽ trong tâm
+ Cảm xúc là phản ứng trực tiếp
do tác động hỗ tương giữa thân thể và tâm thức mà hiện khởi. Nó phát thông tin
tại ngay tiếp diện giữa cơ thể vật lý và tâm lý tạo nên phản ứng trong đời sống
tình cảm của con người như hờn, giận, vui buồn…. trong sự vận hành của thế giới
nội tâm. Đó là hiện tượng tâm lý, còn gọi là tâm hành, có khi gọi là tâm sở. Nó
là nguồn thực phẩm để tưới tẩm và nuôi dưỡng cho tâm thức, vì vậy nếu không có
cảm xúc thì con người trở nên hôn trầm, trơ lì như gỗ đá, vô tri, vô giác.
Cảm xúc bộc lộ một cách trực tiếp
và chân thành. Có khi dùng lý trí để chế ngự không cho nó biểu hiện ra bên
ngoài, thì bên trong nội tâm chắc chắn phải cảm nhận được nó. Chẳng hạn ở đỉnh
điểm của cơn nóng giận, nếu kiềm chế thì nó biểu hiện như đỏ mặt tía tai, nói
năng lắp bắp.v.v.
Con người sống thường nhật với
nhiều loại cảm xúc có cường độ khác nhau. Tuỳ thuộc vào cường độ phản ứng của
cảm xúc mà tâm thức phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Những cảm xúc nào
thường bộc phát sẽ tạo nên thói quen mà danh từ Phật học gọi là tập khí, thói
quen sẽ tạo nên cá tính đặc thù hay bằng mỹ từ là sở thích riêng. Trong ngôn
ngữ Phật học gọi là tập quán nghiệp.
Sở thích riêng này có thể đẩy xa
hơn nữa, thẳng tiến vào cõi đam mê cuồng nhiệt cùng với tự ngã, chẳng thể nào dừng
lại được trên bờ vực thẳm. Câu chuyện truyền hình về cái chết vô nghĩa đáng
tiếc của hai danh tướng Quan Công và Trương Phi trong phim Tam quốc chí chiếu
hàng đêm, chắc là hợp lý đối với tập quán nghiệp của họ. Sức mạnh của tập khí
nghiệp, một dạng năng lượng tiềm ẩn, tích hợp theo thời gian trở thành cái “khí
phách” trong mỗi con người. Rồi từ cái lâu dài tự ngã, được trang trí bằng vành
khăn màu khí phách của mình, con người tự thiết kế ra cuộc sống của chính mình.
Mặc dù trong cuộc đời không ai có thể giống ai, nhưng trong chiều sâu ai cũng
muốn có một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Đó là sự thật, bởi vì nếu không
bình an và hạnh phúc thì những thứ còn lại tiền tài, danh lợi, quyền lực chẳng
còn có ý nghĩa gì nữa.
Kiếp người là như vậy. Chân lý, về
nguyên tắc là phổ quát không thể đúng với người nầy lại không đúng với người
kia. Bản chất chân thật của hạnh phúc được xác định như là chân lý của cõi bình
an – khai trừ hẳn các thể loại bóng dáng phù du của hạnh phúc như bóng ma trơi
của ảo giác hay những loại cảm xúc định xứ trên lạc thú của thân xác theo mô
típ.
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Xuân Diệu
Nếu đã xác định hạnh phúc chân
thực không đặt nền tảng trên lạc thú vậy thì phải bắt đầu từ đâu?
Lạc thú sinh khởi từ cảm xúc mà
cảm xúc phải hướng ra đối tượng bên ngoài. Điều này cho thấy lạc thú mang trong
lòng nó yếu tố lệ thuộc, mất tự do, bị động và bị điều kiện hoá giữa hai đối
tượng, đối tượng nội tâm hay đối tượng ngoại cảnh. Ta nghe tâm sự của Hoàng
Cầm:
“Chị bảo
Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày em tìm thấy lá
Chị chau mày
Đâu phải lá Diêu Bông!”
Lạc thú có mãnh lực lôi cuốn cảm
xúc đối với những ai còn vướng nặng lưới tình đến nỗi không nhận ra mình đang
đùa với trò chơi liếm giọt mật dính trên đầu ngọn dáo.
“Tóc mai sợi vắn sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm”
Ca dao
Vậy hạnh phúc chân thật vốn có sự
bình an nội tại, hướng vào bên trong và bắt đầu từ sự tịnh hoá nội tâm của
chính mình, vượt qua không gian cảm xúc nhị nguyên, chấm dứt lang thang truy
tầm hoa nắng lung linh và an trú tự tại giữa phong ba bão tố của kiếp nhân
sinh.
Cõi bình an nội tại, từ trong sâu
thẳm là một nguồn sinh lực tràn đầy, tươi mát, không hề bị điều động và chi
phối bởi khao khát, đợi chờ của một tấm lòng vị kỷ. Khước từ trở lại con đường
của đoạn trường ma vương, khước từ các trò chơi nương dâu bãi bể, rày đây mai
khác, đổi trắng thay đen. Lúc đó hạnh phúc sẽ đến như một quà tặng vô chủ.
Làm thế nào để nuôi dưỡng được
đời sống an bình nội tại bên trong tâm hồn?
Con người thường sống theo những
thói quen hàng ngày:
+ Hoặc đắm mình trong những ký ức
của quá khứ, một xung lực mạnh mẽ âm thầm trong vô thức; lại tác động đến những
suy nghĩ của mình trong hiện tại và cả cái ước mơ trong tương lai. Thậm chí các
dấu ấn của quá khứ có thể làm khúc xạ đến cái nhìn và cái ứng xử bằng hành vi
trong hiện tại. Chẳng hạn những ký ức không tốt đẹp ở mức độ nặng nề sẽ tạo nên
cảm giác lo âu, hối hận và sợ hãi ám ảnh đến sự an bình trong hiện tại.
+ Hoặc ước vọng đến tương lai, cho
dù là tương lai gần, thì trong nội tâm vẫn không ngừng dao động với dòng chảy
của ảo tưởng. Lúc này con người đã tạo dựng nên một lối sống vừa chạy theo, lại
vừa bị rượt đuổi. Vậy lấy đâu ra sự bình an đích thực cho mình?
* * *
Rốt cuộc ta tìm thấy một nguyên
tắc căn bản để có bình an nội tại thực sự, đó là không truy tìm quá khứ, không
mơ mộng hão huyền về tương lai và nỗ lực sống với hiện tại trước mắt trong từng
hơi thở và từng hành vi.
Các chướng ngại cho sự an trú là
nỗi lo chập chờn giữa hy vọng và sợ hãi nảy sinh từ dòng suy nghĩ miên man của
trí óc. Tự ngã càng lớn chừng nào thì sự thách thức càng lớn giữa thành – bại,
được – mất, hơn – thua. Đây chính là điều mà xã hội gọi là mong muốn “khẳng
định cá nhân“. Sự mong muốn khẳng định đồng nghĩa với nội tâm và tự ngã con
người không ngớt lang thang trong tư lự với được mất, khen chê, danh vọng và
không danh vọng, vui buồn, hạnh phúc và bất hạnh.
Một đoạn thơ truyện Kiều Nguyễn
Du khuyên người đời sau một kinh nghiệm sống thế này:
“Vậy nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng
Ma đưa lối, quỉ đưa đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”
Chỉ khi nào con người đạt đến
trạng thái tĩnh lặng trong bình an nội tại, sự mầu nhiệm của nội tâm sẽ xuất
hiện. Tuệ giác tĩnh thức này là ân huệ của ánh sáng tâm linh dẫn dắt chúng ta
đi vào cuộc sống an bình hạnh phúc đích thực.
Đây không phải là nội dung biện
giải của lý trí mà là thực tại được chiêm nghiệm. Sự chiêm nghiệm hiện thể ở
bất cứ lúc nào trong đời sống. Với tâm bình an thì tất cả các giác quan được
thanh lọc, bén nhạy, có thể cảm nhận thực tại tinh tế và màu nhiệm trong cái vô
tận. Và chính lúc này, lúc an trú trong hiện tại một cách vững chãi, ta sẽ có
khả năng vượt lên trên mọi thứ ngờ vực lo âu của ảo tưởng, sống bình an tự tại,
thể nhập vào dòng thực tại với tri kiến giải thoát.
Trời bay mây bốn hướng xa mong
Từng cánh én mang trùng dương về nội
BG
Đức Phật dạy:
“Đừng tưởng nhớ quá khứ
Đừng lo lắng tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới
Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chải và thảnh thơi…”
Kinh Người Biết Sống Một Mình