
Ta làm đúng và nói đúng, nhưng ta
lại bị nhiều người chỉ trích mỗi ngày, và như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi
ngày đưa ta từ bóng đêm bước ra ánh sáng và từ ánh sáng này, ta bước tới ánh
sáng khác.
Chân lý không thuộc về sự khen
ngợi hay chỉ trích, mà thuộc về ở nơi người nào thấy và biết đúng, nghe và cảm
nhận đúng, sống đúng, nói và làm đúng.
Lằn mức giữa đúng và sai thật vô cùng vi tế và thẳm sâu, nên có những suy nghĩ, có những việc làm của ta, ở độ tuổi nầy thì đúng, mà bước qua độ tuổi khác lại là sai; ở buổi sáng thì đúng, mà ở buổi chiều thì sai; ở phút trước thì đúng, mà ở phút sau thì sai; đối với hoàn cảnh nầy thì đúng, nhưng ở hoàn cảnh khác thì sai; đối với người nầy thì đúng, mà đối với người khác thì sai, và cùng một vấn đề, mà ta nhìn nó từ góc độ nầy, thì nó đúng, nhưng ta nhìn nó với một góc độ khác thì sai.
Nên, đúng và sai là tùy theo mức
độ hiểu biết của ta, liên hệ đến ô nhiễm hay thanh tịnh, sâu hay cạn, rộng hay
hẹp của tâm ta.
Hễ tâm ta càng ít ô nhiễm và càng
ít bị xáo động, thì cái biết của ta đi dần tới với cái đúng và ta có thể thường
trú ở trong cái đúng. Hễ tâm ta bị ô nhiễm và xáo động, thì cái biết của ta
càng lúc càng đi dần tới với cái sai lầm và ta có thể cộng trú thường trực với
cái sai lầm ấy.
Ta thấy đúng và biết đúng đối với
mọi sự hiện hữu, là do tâm ta yên lắng, không bị xáo động bởi các vọng tưởng,
hoàn toàn không bị lay động và thụ động bởi các ngã tưởng và các dục. Ta sống
với tâm như vậy, thì lúc nào và ở đâu, ta cũng không bị hoàn cảnh sai sử và
không bị các hình tướng đánh lừa. Ta nghe với tâm yên lắng, không bị xáo động
bởi các tưởng, thì ở đâu và lúc nào, ta cũng có sự tự do đối với cái nghe và ta
không bị mọi ngôn ngữ và âm thanh đánh lừa. Ta cảm nhận từ mọi sự xúc chạm với
tâm yên lắng và không bị xáo động đối với các vọng tưởng, thì sự cảm nhận của
ta là sự cảm nhận đúng, nên lúc nào và ở đâu, ta cũng không bị các cảm giác và
tri giác đánh lừa.
Ta nuôi dưỡng đời sống bằng tâm
yên lắng và không bị xáo động, thì lúc nào và ở đâu, ta cũng có tự chủ, không
bị các loại ăn mặc và các thực phẩm ăn uống đánh lừa. Ta nuôi dưỡng đời sống
bằng tâm chân thực, bằng sự hiểu biết sáng trong, bằng những hành động và những
lời nói đúng đắn, thì lúc nào và ở đâu, ta cũng có đảm lực để sống, ta không bị
thời gian khuất lấp, không bị những sự sợ hãi chi phối và không bị những sự hư
dối đánh lừa.
Ta làm đúng, thì nhân quả đến với
ta đúng như những gì ta đã làm. Ta làm sai, thì nhân quả cũng đến với ta đúng
như những gì ta đã làm sai.
Ta muốn ăn cam, ta trồng cam, hội
đủ nhân duyên, cam sẽ cho ta trái ngọt. Ta muốn ăn cam mà gieo hạt quýt, hội đủ
nhân duyên, quýt sẽ ra trái cho ta mà không phải là cam.
Như vậy, ta thấy đúng, biết đúng
và làm đúng, thì nhân quả đúng tự đến với ta. Ta thấy biết sai và làm sai, thì
nhân quả đúng như với cái sai cũng tự đến với chúng ta.
Ta muốn ăn cam mà lại trồng quýt
và chăm sóc quýt, hội đủ nhân duyên, thì ta chỉ có thành quả của quýt mà không
phải là thành quả của cam, như vậy ta bị rơi vào tình trạng khổ đau là do ta mơ
ước mà không thành.
Mơ ước không thành là do tâm ta,
mà không phải do nhân quả hay do cuộc đời. Cuộc đời của ta chính là tâm ta và
nhân duyên, nhân quả của cuộc đời ta là tùy thuộc vào tâm ta mà biểu hiện.
Không có nhân duyên và nhân quả nào tách rời khỏi tâm ta mà hình thành và biểu
hiện cả. Tâm ta chính là nguồn gốc cho nhân duyên, nhân quả của cuộc đời ta
hình thành và biểu hiện.
Do ta không nhận biết cụ thể và
chính xác nhân duyên, nhân quả giữa những hạt giống cam và quýt; do ta không
biết phương pháp để chăm sóc; và do ta không biết thời vụ và chất đất để gieo
trồng, nên ta mong muốn một đường, mà kết quả đến với ta một nẻo.
Không có nhân duyên, nhân quả
nào, khi ta gieo hạt giống cam mà quả lại cho ta là quýt và cũng không có nhân
duyên, nhân quả nào, ta gieo hạt giống quýt mà quả lại cho ta là cam.
Cũng vậy, không có thành quả của
an lạc và hạnh phúc nào đến với người tâm nghĩ ác, miệng nói ác, thân làm ác.
Và cũng không có thành quả khổ đau và thất vọng nào đến với người tâm nghĩ
thiện, miệng nói thiện và thân hành thiện.
Nếu vì bản thân ta, mà nghĩ đến
điều thiện, miệng nói điều thiện và nỗ lực làm việc thiện, thì thiện ấy chưa
phải là thiện của thiện, nên an lạc đến với ta rất ít, mà khổ đau và thất vọng
đến với ta rất nhiều.
Vì vậy, ta không ngạc nhiên gì, ở
giữa đời đã có nhiều người tự cho mình là hành thiện, nhưng trong đời sống của
họ chỉ sinh ra những trái đắng và khổ đau.
Nếu không vì bản thân ta mà tâm
nghĩ đến điều thiện, miệng nói điều thiện và nỗ lực làm thiện mỗi ngày, thì
thiện ấy mới đích thực là thiện. Thiện ấy là điểm để cho niềm tin và an lạc
trong tâm ta phát sinh và nhân duyên, nhân quả tốt đẹp hình thành trong đời
sống của ta.
Một người biết sống yêu thương và
tử tế với chính mình, người ấy không phải chỉ biết khắc phục hậu quả khổ đau,
mà còn phải biết cách lấy những hạt giống khổ đau ra khỏi tâm thức của chính
họ, khiến cho mọi nhân duyên, nhân quả khổ đau không còn có điều kiện sinh khởi
ở trong đời sống của họ nữa. Và một người thông minh, giàu lòng nhân ái, người
ấy không phải chỉ biết giúp người khác khắc phục hậu quả khổ đau, mà còn phải
biết cách giúp cho người khác, thoát ra khỏi những hạt giống khổ đau ở nơi tâm
thức của chính họ nữa.
Khổ đau hay hạnh phúc đến với
chúng ta là từ nơi tâm thức của mỗi chúng ta. Nên, mỗi khi đối diện với khổ đau
hay hạnh phúc là ta có cơ hội để tiếp xúc với những hạt giống thiện, ác ở nơi
tâm ta. Tiếp xúc với những hạt giống bất thiện ở nơi tâm ta, không phải để đối
phó, mà để nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa, khiến chúng đi về theo hướng hiền
thiện. Và tiếp xúc với những hạt giống thiện ở nơi tâm ta không phải để tự mãn,
mà để tiếp tục nuôi dưỡng và thăng hoa chúng đến chỗ thuần thiện.
Tiếp xúc và làm chủ tâm ta mỗi
ngày, điều ấy không phải là dễ, tại sao? Vì tâm ta không có hình tướng. Nó vĩ
đại thì trong thế gian nầy không có gì vĩ đại cho bằng; nó tinh vi, thì ở trong
thế gian nầy, không có cái gì tinh vi cho bằng; nó bén nhạy và linh hoạt, thì ở
trong thế gian nầy không có cái gì bén nhạy và linh hoạt cho bằng; nó độc ác
thì ở thế gian nầy không có cái gì độc ác cho bằng; nó thánh thiện thì ở trong
thế gian nầy không có cái gì thánh thiện cho bằng.
Vì vậy, tiếp xúc và làm chủ tâm
là cả một công trình tu luyện liên tục và miên mật.
Và cũng vì vậy, ai tiếp xúc và
làm chủ được tâm, người ấy mới có khả năng làm chủ được nhân duyên, nhân quả
của đời mình, làm chủ được sự sống chết và tự tại giữa muôn ngàn diệt sinh, ảo
hóa của vạn duyên và vạn hữu.
Nếu ta không làm chủ được tâm ta,
thì ta sống với ai, ta cũng sẽ buồn chán, sống với xứ sở nào ta cũng sẽ thất vọng.
Và nếu ta làm chủ được tâm ta, thì ta sẽ làm chủ được vạn duyên trong đời sống
của ta, nên sống với ai ta cũng vui. Ta sống với thiện hữu tri thức ta vui đã
đành, mà sống với ác tri thức cũng không làm cho niềm vui của ta bị suy giảm.
Sống với thiện tri thức ta cũng có điều kiện để học hỏi và thăng hoa, mà sống
với ác tri thức ta cũng có điều kiện để nhìn lại mình, mà phòng hộ và chuyển
hóa. Sống trong thuận cảnh, ta vui đã đành mà sống trong nghịch cảnh, niềm vui
của ta cũng không hề bị tổn giảm. Sống trong thuận cảnh, ta cũng có điều kiện
để thăng hoa, mà sống trong nghịch cảnh, ta cũng có điều kiện để tôi luyện và
phát huy nội lực.
Nghiệm cho cùng, sống giữa đời
không có ai tồn tại trong thuận cảnh đơn thuần và cũng không có một ai tồn tại
đơn thuần giữa nghịch cảnh. Nghịch và thuận là hai mặt tương sinh trong đời
sống của mỗi chúng ta. Cũng như hai cánh tay phải và trái là hai khía cạnh của
một thân thể lành mạnh, linh hoạt và tháo vát. Một thân thể lành mạnh, linh
hoạt và tháo vát không bao giờ chỉ biết hoạt động một tay hay một chân.
Trong đời sống hàng ngày của
chúng ta, ta thuận với cái nầy, thì ta nghịch với cái khác và ta nghịch với cái
nầy, thì ta thuận với cái khác.
Ta chỉ có hạnh phúc và có khả
năng hướng thượng, khi ta nhận ra được sự thật của lẽ thuận nghịch ấy trong đời
sống của ta và chung quanh ta. Ta phải biết tác dụng thực tế của hai mặt thuận
nghịch, ngay trong đời sống của mỗi chúng ta. Và ta phải biết làm chủ tâm ta
ngay trong cái lẽ thuận nghịch ấy của cuộc sống.
Ta cần nhìn thật trầm tĩnh và sâu
sắc để thấy rằng, ở trong đời có những cái thuận với ta cũng có khi giúp ta,
nhưng cũng có khi hại ta và có những cái nghịch với ta cũng có khi là hại ta,
nhưng cũng có khi giúp ta rất nhiều.
Nên, vấn đề an lạc và hạnh phúc
của ta không phải là ở nơi sự từ chối nghịch chạy theo thuận, mà ta phải biết
làm chủ tâm ta giữa hai lẽ thuận và nghịch ấy của cuộc sống. Ta cần phải nhìn
sâu để biết rằng, chân lý của cuộc sống là bao gồm cả hai lẽ thuận và nghịch,
nếu từ chối thuận hay từ chối nghịch, thì ta không có lý do gì để hiện hữu.
Cũng như ánh sáng là chân lý và
tác dụng của ngọn đèn, nếu ngọn đèn chỉ chấp nhận điện tử dương, mà từ chối
điện tử âm hoặc chỉ chấp nhận điện tử âm mà không chấp nhận điện tử dương, thì
ánh sáng và tác dụng của ngọn đèn không bao giờ phát ra, khiến cho sự có mặt
của cây đèn trở thành vô dụng và vô nghĩa. Ánh sáng của ngọn đèn chỉ phát ra và
có tác dụng lợi ích cho cuộc sống, khi nào bản thân ngọn đèn có khả năng tiếp
nhận và làm chủ hai dòng âm dương, thuận nghịch đến với nó và hoạt động trong
nó.
Cũng vậy, mỗi khi ta đã làm chủ
được tâm ta, khiến tâm ta hoàn toàn không bị chi phối bởi các vọng tưởng, thì
hai lẽ thuận nghịch trong đời sống của mỗi chúng ta, giúp cho ta đi tới với đời
sống tự do và khiến cho ta thong dong giữa đôi dòng thuận nghịch.
Thuận và nghịch trong đời sống
của mỗi chúng ta, chẳng khác nào đôi cánh phải và trái của chú chim đại bàng đã
giúp cho chú bay liệng giữa bầu trời cao rộng và tự do.
Thuận và nghịch trong đời sống
của mỗi chúng ta, cũng phải thường trực quán chiếu như vậy, để lúc nào và ở
đâu, ta cũng làm chủ được tâm ta, để ta có khả năng chế tác ra hạnh phúc và an
lạc cho ta và cho mọi người, khiến cho ai cũng có thể thực hiện đời sống thong
dong giữa đôi dòng thuận nghịch