Vấn đề “ác tính”

Ác tính (hay ác ý) là một thực thể trong tâm hồn của mỗi con người phàm tục. Riêng thú vật thì chỉ có thú tính, chứ không có "ác tính". Nhưng đối với Phật Giáo, thú tính tương đương với "ác tính". Nó không phải do một đấng toàn năng hay một quyền lực siêu nhiên nào “thổi vào” mỗi sinh linh có thân tứ đại (đất, nước, lửa, khí) hết. Nó chỉ là kết quả tất nhiên của đôi "nguyên ủy sống" là danh và sắc (nãma rùpa).

Hễ có một chúng sinh luân hồi ra đời, là có một ác tính nằm sẵn trong “vô thức” (một tình trạng sâu hơn tiềm thức) của chúng sinh ấy. Nó vừa là sự tham sống, vừa là “động lực” phiêu lưu, đòi hỏi thỏa mãn sự tham sống ấy. Kết quả là phải chịu đựng muôn ngàn cảnh khổ.

Cũng như hễ có một con người tiến hóa hiện hữu, thì ở đó có thể có một ý chí thoát khổ, hay một giác tánh, một “vị Phật”. Và dĩ nhiên "đối thủ" của ác tính là thiện tính (hay giác tính, khởi đầu của Phật Tính). Ðức Phật khi còn tại thế, đôi khi đã gọi ác tính là "ma vương" (mãra). Chính Ngài trước khi hoàn toàn giác ngộ, cũng đã thường xuyên trực diện với những ác tính (thô thiển lẫn vi tế), hằng nhiễu nhương trong sắc thân ngũ uẩn của Ngài. (Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn).

Tuy nhiên, Phật Giáo không quan niệm ác tính như một thực tế nhất định hay bất trị. Nghĩa là nếu ác tính hằng có một “đối thủ” lợi hại là thiện tính, trực diện và song hành với nó, thì nó vẫn có thể sớm muộn gì cũng bị hóa giải, tiêu diệt. Ðây chính là cái lý do căn bản của nhà Phật, để "quan niệm" về một con người. Ðức Phật đã dạy các hàng Phật tử phải cố gắng "không làm mọi điều ác, làm tròn đủ việc lành, và giữ tâm thanh tịnh", để có thể nhìn thấy cái sắc thân của mình, đúng thực trạng của nó (Yathãhũmitaŋ).

 Nguyên văn tiếng Phạn, của mấy câu Phật ngôn ghi trên là:

"Sabbapãpassa akaranaŋ,
 Kusalassa upasampadã,
 Sa cittapariyo dapanaŋ...."

Thói thường, người ta thích quan sát rất kỹ những ác tính của kẻ khác, mà không bao giờ xác nhận cái ác tính của chính mình. Tệ hơn nữa là khi người ta nhận thấy một số ác tính của bản thân quá hiển nhiên, thì người ta liền không ngần ngại biện hộ, là bởi như thế này hay bởi như thế khác, để cuối cùng qui trách nhiệm về một nguyên nhân nào đó. Và đây chính là nguồn gốc đưa đến đau khổ, đưa đến vô minh, và đưa đến tà kiến, tin tưởng vào thánh đế hay thần linh.

Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikãya Sutta), đức Phật cũng từng nói: "Có nhiều vị giáo chủ vẫn còn nhầm lẫn, không nhận ra sự khác biệt giữa đêm và ngày, là do pháp hành của vũ trụ, mà cứ đổ diệt hiện tượng ngày đêm ấy là do Thượng Ðế sắp đặt" (Maj.N. I, trang 21).

Rồi đức Phật lại tiếp: "Nhưng Như Lai nhờ chứng đắc toàn giác, đã biết rõ vì sao có ngày, vì sao có đêm, vì sao có ánh sáng, và vì sao có bóng tối, một cách không dư sót. Và Như Lai cũng hằng khuyên chư thiện nam tín nữ hãy giữ mình cho thanh tịnh, toàn thiện, để nhận thức đúng đắn như thế".

Theo câu Phật ngôn trên đây, thì rõ ràng Phật Giáo đã thẳng thắn xác nhận: Trong cái thế giới sinh tồn có điều kiện này, hễ ác tánh có ở đâu thì thiện tính có ở đó. Duy một điều là nếu thiện tánh (sáng) đưa chúng sinh đi lên (tiến hóa), thì ác tính (tối) kéo chúng sinh đi xuống (thoái hóa, sa đọa). Thiện tánh tăng thì ác tính giảm, thiện tánh tỏa sáng thì ác tính tiêu tan, bóng tối biến mất, chứ thiện tánh không do một đấng toàn năng nào ban cho, cũng như ác tính không do một quyền lực nào nổi giận, giáng vào ta cả.

Tuy nhiên, đối với một số tôn giáo, thì thiện tánh và ác tánh là do sự hành xử của một đấng tối cao. Bất cứ ai chịu phục tùng và vâng lời đấng tối cao ấy, thì tất nhiên sẽ được "ngài" ban cho ánh sáng thiện tánh (?). Còn kẻ nào dám nghịch mệnh, thì sẽ bị “Ngài” giáng vào linh hồn dẫy đầy những ác tánh (bóng tối), để chịu thống khổ đời đời trong sa đọa, hay hắc cảnh địa ngục.(?)

Cũng theo các tôn giáo này, thì địa ngục là một cảnh giới do đấng toàn năng kia dựng lên, có đầy đủ cực hình, để trừng phạt những ai không chịu nạp mình, qui phục và vâng lời đấng toàn năng ấy. Do đó, ngày nay tuy loài người đã bước vào thời đại nguyên tử, du hành trong không gian, nhưng các định kiến về một đấng tạo hóa tối cao vẫn còn.

Kết quả, khi đối thoại với khoa học, những người tin tưởng vào quyền lực toàn năng, đã không tránh được một tình trạng bế tắc. Còn khi đối thoại với đạo Phật, một số vấn đề, với tâm thanh tịnh có thể được lý giải, thì họ bị lúng túng, cầu cứu vào “lòng tin”. Họ bảo rằng “tin là đủ, không cần soi sáng chứng minh”. -Và Phật giáo chủ trương thanh tịnh để lý giải, không phải để đề cao học thuyết của mình, hay hạ thấp kẻ khác, mà chỉ để cống hiến một cách xây dựng, một phương pháp giải trừ sự lầm lạc của người đời mà thôi.

Theo các nhà thần học thuộc những tôn giáo này, thì thế gian và muôn loài vạn vật, đều do một đấng duy nhất toàn năng, toàn tri và toàn kiến tạo ra. Bất cứ ai không chịu phục tùng, hay chối bỏ cái quyền lực thánh đế ấy, tất sẽ bị đày vào ác đạo đời đời.(!?).

Phật Giáo soi sáng một điều: Nếu mọi sinh vật trên cõi thế, mà được tạo ra bởi một chúa tể có ba phẩm tính, là toàn năng, toàn tri, và toàn kiến, thì các ác tính trong những sinh vật ấy từ đâu ra? ( Si Deus Bonus Unde Malum?). Thật là nghịch lý để chúng ta có thể kết luận rằng: "Các ác tính có thể phát xuất từ trong tác phẩm sáng tạo, của ba thánh lực toàn năng, toàn tri, và toàn kiến hợp lại"?

Trước ngõ cụt ấy, một số nhà thần học bảo thủ liền vội vàng giảng nghĩa. Họ đã viết hàng ngàn cuốn sách để biện luận cho định kiến của mình. Toàn thể những lý luận của họ có thể tóm lược như sau:

-Thứ nhất, ác tính chỉ có khi con người va chạm với ngoại cảnh, chứ trong bản tánh của mọi sinh linh “từ đầu” không có ác tính. Như vậy phải chăng khi con người sống hoàn toàn cô lập với mọi vật, thì họ sẽ không có ác tính? Ðiều này thiết nghĩ cần xét lại, vì xuyên qua những thí nghiệm, người ta đã kết luận rằng: Một đứa bé dù nuôi nấng riêng biệt, tách rời khỏi xã hội, nhưng các tật xấu thuộc về vị kỷ của nó vẫn xuất hiện, như tất cả trẻ con khác, sống chung giữa cộng đồng.

(Ở đây cần lưu ý để phân biệt ác tính và thói quen cộng nghiệp. Ác tính là lòng tham cố hữu. Và thói quen là do xã hội tạo ra. Đành rằng có một số (rất hiếm) thói quen, hay phong tục tập quán “tốt”, làm cho con người “chịu” sống chung hòa bình với nhau. Nhưng các thói quen hay “phong tục tập quán tốt” đó vốn không thanh tịnh, không có khả năng giải trừ được lòng tham cố hữu, nếu không muốn nói ấy cũng chỉ là một dạng khác của lòng tham cố hữu mà thôi. -Đó là lòng tham sự sống an ổn, tham sung túc cho bản ngã!).

-Thứ hai, ác tính chỉ là một sự tưởng tượng, hay ảo chấp của con người với ngoại cảnh, chứ trên thực tế, ác tính là một điều không có. Ðối với thượng đế, tất cả sinh linh đều chỉ mang một tâm hồn «bình đẳng” bất diệt, và vô nhiễm trước khi chào đời, cũng như sau khi lìa bỏ xác thân phàm tục này. (?)

-Thứ ba, ác tính chỉ là một "phương tiện" mà đấng toàn năng dùng để phản ảnh và gìn giữ "chân tánh" của tất cả linh hồn do "ngài" tạo ra. Ví như "nếu không có đêm, thì người ta không làm sao biết được ngày", cũng như "nếu không có xấu, thì người ta không thể đánh giá được tốt". Như vậy, trong mỗi tác phẩm của "tạo hóa", chỉ có cái "tốt" chứ không có cái "xấu", và cái xấu (ám chỉ ác tính) vốn chỉ là một phương tiện bên ngoài, để người ta "xác nhận" được cái tốt hằng có của "thượng đế", qua cuộc sống thường ngày mà thôi. (?)

Hai luận cứ thứ nhất và thứ ba có vẻ rất được các nhà thần học hiện đại hài lòng, vì “ác tính” chỉ có trong đời sống thể xác, chứ không có trong lĩnh vực tâm linh, nghĩa là nếu cầu xin “Thượng Đế” đại dung tha thứ, thì hết tội, Như vậy họ tin là có thể cắt nghĩa được vấn đề ác tính, mà không làm phương hại đến uy danh của thượng đế.(?)

Tuy nhiên, khi trực diện với thực tế, các luận cứ ấy cũng không được nghiệm đúng, trước sự đau khổ của tất cả chúng sinh, nhất là trước sự khốn nạn của một số trẻ con mới chào đời, đã bị tật nguyền. Những trẻ con này tâm thức chưa bao giờ có dịp va chạm với cuộc sống, mà phải chịu đầy bất hạnh vô lý. -Như thế phải chăng "thượng đế" đã dùng sự tàn tật của các em như những phương tiện để phản ảnh cái tốt trong "tác phẩm" của Ngài? -Và xin hỏi ấy là cái tốt gì?

Chưa kể ngay những người tin theo luận cứ này trước sau gì cũng bị hoang mang và xét lại, bởi những khám phá cụ thể không thể chối cãi được, của khoa học thực nghiệm!

 Còn theo quan niệm của Phật Giáo thì sao? Vấn đề ác tính Phật Giáo phân tích như thế nào?

Như trên soạn giả đã nói: Phật Giáo không nhìn nhận có một đấng toàn năng, toàn tri và toàn kiến, dựng lên cái thế gian hiện hữu đầy ô nhiễm này. Thay vào đó, Phật Giáo xác nhận một sự thật hằng nghiệm đúng, là sự thật hóa sinh luân hồi có điều kiện, và nằm trong vòng tan hợp của pháp hành, ảnh hưởng lên toàn thể chúng sinh, hay luật biến dịch = vô thường).

Trên căn bản đó, Phật Giáo luôn luôn mạnh dạn tuyên bố: "Thế gian điên đảo không do một quyền lực toàn năng, toàn tri, toàn kiến nào tạo ra cả, mà nó chỉ là kết quả trụ hình, hữu thời và duy động của những vòng biến dịch từ luân hóa vô biên xứ đến nhị nguyên vô viên cực”.

Ðúng ra, tác phẩm của một đấng toàn năng, toàn tri và toàn kiến phải là trường cửu, lành mạnh, và hạnh phúc, chứ không thể nào là vô minh, tạm bợ, xung đột, bất thiện, ô trược, và thoái hóa như thế gian được! Và nếu thượng đế không làm hoàn hảo nổi "tác phẩm" của mình, thì phẩm cách toàn năng, toàn tri, và toàn kiến của Ngài biểu lộ ở đâu?

Người học Phật ngay thẳng chẳng bao giờ mang tâm trạng bi quan, tiêu cực, sợ sệt phạm thánh, rồi cố ý phủ nhận, hay giải trôi thực tế của ác tính. Vì nếu chúng ta chối bỏ sự hiện hữu của ác tính, như nguyên nhân gây ra đau khổ trong con người của mỗi chúng ta, thì chúng ta không bao giờ đặt vấn đề giải quyết, hay tìm kiếm phương pháp để diệt trừ tận gốc cái ác tính ấy.

Chúng ta lại càng không cần phải rán sức, tận dụng mọi sắt bén của tư tưởng, của óc thông minh để hợp lý hóa sự có mặt của ác tính, vì làm như thế tức là chúng ta đã vô tình bảo vệ và nuôi dưỡng mầm thoái hóa cho chính mình! Trái lại Phật Giáo khuyên con người nên xác nhận có ác tính, xem ác tính như một thực tế, tuy nguy hiểm nhưng khả dĩ, để rèn luyện tinh thần, hầu giải thoát tinh thần ra khỏi ảnh hưởng của nó.

Ví như khi chúng ta đang cố gắng lội ngược chiều giòng nước, để không bị trôi phăng ra biển, tâm trạng buông xuôi là một thực tế trong chúng ta, chúng ta cần nhìn nhận, mới có thể dứt khoát dẹp bỏ nó được, để ngoi mình tiến tới, chứ chúng ta không thể nào biện luận rồi hợp lý hóa cái tâm trạng buông xuôi ấy, là không phải do ta mà là do số mệnh "trời định ra" như thế.

“Nhìn nhận” có cái xấu (tức ác tính hay tập đế, nguyên nhân của mọi điều khổ) trong bản thân mình, theo Phật Giáo không phải để xấu hổ, tự ty mặc cảm, làm nhụt ý chí, mà là để nhìn thẳng sự thật, hầu rèn luyện sức mạnh trí tuệ, đưa đến giác ngộ, và đưa đến giải thoát tối thượng.

 Văn chương bình dân Việt Nam cũng đã có các câu:

"Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng,
Nhụy vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

Sen tuy có cái hương sắc tinh khiết siêu trần của nó, nhưng sen không phủ nhận là "mình" đã từ trong bùn chui ra. Câu thơ sau cùng phải chăng đã phản ảnh rất trung trực ý nghĩa "không chối bỏ ác tính" của Phật Giáo. Xin nhấn mạnh ở đây "không chối bỏ" tức là để dứt khoát cảnh giác, tự ta phải doạn tuyệt với dục vọng để ngoi lên, chứ không có một đấng nào có thể giúp ta làm được việc đó!

Nhiều học giả Tây phương cũng đã nhầm lẫn cho rằng "Phật Giáo nhìn nhận thế gian đầy ác tính, tức là luôn luôn nhìn cuộc đời chứa đựng sự đau khổ, và nhìn đời bằng khía cạnh đau khổ tối tăm, tức là bi quan”.(?)

Các học giả này phát biểu như thế là vì họ chỉ căn cứ vào chổ phân tách của Phật Giáo về bản chất luân dịch có điều kiện của vạn vật (vô thường, khổ não, vô ngã (aniccã dukkhã anattã), chứ họ không chịu nghiên cứu sâu xa hơn, về phương diện tiến hóa của đạo Phật.

Trong một cuốn bách khoa tự điển nọ, nói về tôn giáo và đạo đức (Encyclopaedia Of Religion And Ethics), có một đoạn vị soạn giả Tây phương, tỏ ra không biết gì về đạo Phật. Bằng chứng là ở phần nói về thiện và ác (articles on Good and Evil) trong bộ tự điển, soạn giả ấy đã không ngần ngại cho rằng: "Sự hiện hữu trên thế gian đối với Phật giáo là một điều tội lỗi" (?) (Existence….seemed to the Buddha to be evil).

Rõ ràng là tác giả của đoạn văn nêu trên, đã hoàn toàn hiểu sai đức Phật. Vì rằng không có một chỗ nào trong Tam Tạng kinh điển ghi lại, mà chúng ta tìm thấy đức Phật từng phát biểu như thế.

Trái lại, điều mà đức Phật thường xuyên nhắc nhở chúng ta, là tất cả các pháp hành trong cõi hiện hữu này, đều luôn luôn có hai mặt đối nghịch (nhị biên tương đối): Ðó là mặt tốt (assãda) và mặt xấu (àdìnava). Nói cách khác là mặt thiện pháp và mặt ác pháp (tương đương với hai chiều tiến hóa và thoái hóa trong sinh vật lý học). Hơn nữa, đức Phật cũng không phải chỉ phân tích suông hai mặt như thế, mà tiếp theo Ngài còn chứng minh rõ ràng mặt nào chúng sinh càng cố gắng bồi đắp, nó càng lợi lạc, bền vững, và càng thấy gần cứu cánh. Còn mặt nào con người càng đuổi bắt, nó càng chạy xa, càng biến đổi như ảo mộng, và càng bất định!

Vì thế trong cuộc đời, kẻ nào tinh thần thường thanh tịnh mở rộng, thì ý thức tự nhiên tiến hóa, con đường giải thoát cảnh khổ dần dần hiện rõ. Ngược lại, kẻ nào lòng dạ càng tham lam ích kỷ, thì ác tính càng gia tăng, vật chất ảo dụng của thế gian càng được, thì cái đích thỏa mãn càng không đến. Ðúng như câu tục ngữ "túi tham không bao giờ có đáy".

Xem thế đủ thấy rằng Phật Giáo chẳng phải bi quan mà chính là "lạc quan", lạc quan trong thanh tịnh, không lạc quan trong lời nói! Và ngoài cái nhìn của Phật Giáo ra, không một chân lý nào khác có thể soi thấu được sự thật, để từ đó kẻ tu học có thể bước đúng vào con đường chân hạnh phúc, một thứ hạnh phúc không có điều kiện, không chứa đựng xung đột, và không bị nhân quả cột trói vào tù ngục.

Previous Post
Next Post