Hỏi: Kính thưa Thầy, câu chuyện Mục Liên, Thanh Đề có phải là sự báo
hiếu của Đạo Phật hay không ? Báo hiếu như vậy có đúng hay không? Xin Thầy chỉ
dạy cho chúng con được rõ.
Câu hỏi của một cư sĩ
miền Bắc.
Đáp: Kinh Vu Lan Bồn là kinh sách
phát triển, xây dựng đạo lý của mình trên hình thức cứu độ, kinh khéo léo dùng
tập thể cứu độ để đánh lừa người khác, mạo nhận là Phật dạy để không ai truy
tìm sự lừa đảo này được.
Như chúng ta đã biết, đức Phật đã
từng dạy chúng ta: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi”. Giáo pháp của Ngài được
xây dựng trên nền tảng “Đạo đức nhân quả”, thì không có lý nào đức Phật lại dạy
một điều phi đạo đức, phi nhân quả như vậy sao?
Chúng ta phải xem xét lại coi
những loại kinh sách phát triển này, chứ đừng vội tin.
Đạo đức nhân quả là một thứ đạo
đức được xây dựng trên sự công bằng, công lý và bình đẳng với một trí tuệ vô
hạn, thấu suốt được mỗi hành động của con người làm thiện hay làm ác.
Vì xây dựng tôn giáo của mình
trên một nền đạo đức công lý, công bằng và bình đẳng cho mọi người như vậy, nên
trên đầu Ngài chẳng có ai là Thầy của mình, chẳng có ai cứu độ cho mình được,
chỉ có sức tự lực và trí tuệ của mình mới cứu mình thoát ra cảnh đau khổ của
kiếp làm người đang bị luân lưu trong vòng nhân quả luân hồi.
Ngài đã tự cứu mình bằng những
giáo pháp mà Ngài tự tìm ra được. Giáo pháp đó là một thứ giáo pháp rất thực tế
và cụ thể, mà mỗi pháp môn đều có cách thức tu tập trực tiếp đối trị lại từng
tâm niệm ác và sự đau khổ của con người trong cuộc sống để vượt thoát ra khỏi.
Một giáo pháp không có hình ảnh,
lý và sự mơ hồ, trừu tượng, không có sự cầu khẩn, van xin, cứu độ; không có sự
cúng bái, tụng, niệm và chú thuật v.v...
Một giáo pháp không có thế giới
siêu hình, không có linh hồn người chết. Không có đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế,
không có đấng Tạo Hóa, không có thần linh và cũng không có ma, quỷ v.v...
Một giáo pháp chỉ dạy cho chúng
ta, những gì cần dứt bỏ thì phải dứt bỏ, những gì cần tu tập thì phải tu tập,
những gì cần trau dồi thì phải trau dồi và những gì cần thông hiểu thì phải
thông hiểu.
Người nghiên cứu và có thực hành
giáo pháp của đức Phật thì không thể nào bị người khác lừa đảo bằng những pháp
tà giáo, ngoại đạo. Chỉ có những người chưa từng nghe đến giáo pháp của đức
Phật thì dễ bị kẻ khác mạo nhận pháp môn tà giáo là của Phật.
Vì giáo pháp của đạo Phật không
có một giáo pháp nào của ngoại đạo tương đồng được. Giáo pháp của Ngài là giáo
pháp “xả, ly”, với một pháp hướng tâm “Như lý tác ý” tuyệt vời, với mục đích
khiến cho tâm con người bất động trước các pháp và các cảm thọ.
Giáo pháp của Ngài chỉ có tự lực
cứu mình, còn giáo pháp của ngoại đạo thì nhờ đến tha lực cứu mình. Do thế ta
nhận ra giáo pháp của Phật một cách rất dễ dàng không có khó khăn, vì một bên
là tự lực và một bên là tha lực.
Vì thế câu chuyện Mục Kiền Liên
và Bà Thanh Đề, ta thấy rõ đó là giáo pháp của Ngoại đạo đang lồng trong giáo
pháp của đạo Phật, mượn danh đức Phật để lừa gạt tín đồ Phật giáo theo đạo của
mình mà không nghi ngờ. Đó là sự khéo léo giáo lý của kinh sách phát triển.
Kinh sách phát triển, người ta
đọc rất hấp dẫn do sự diễn đạt qua hình thức cấu kết giống như tiểu thuyết và
giàu sức tưởng tượng theo kiểu thiền Đông Độ.
Mục Liên đi theo Phật tu hành
chứng quả giải thoát đắc Lục thông. Mẹ là Thanh Đề, trước kia sùng kính Phật
pháp, cúng dường trai Tăng tứ sự đầy đủ, sau khi Mục Liên bỏ nhà đi tu, bà tức
giận làm bánh nhưn thịt chó để thử thách chúng Tăng, nên bị tội đọa địa ngục
ngạ quỷ.
Mục Liên chứng đắc thần thông
dùng thiên nhãn thấy mẹ mình đang đọa địa ngục ngạ quỷ, đói khát vô tận. Thương
mẹ Ngài dùng thần thông xuống địa ngục thăm và mang theo một bát cơm cho mẹ.
Thanh Đề đang đói khát thấy cơm bà đón nhận và bốc ăn liền, nhưng không thể ăn
được, vì cơm đã cháy thành than.
Mục Liên thấy mẹ thọ lãnh quả khổ
đói khát như vậy, muốn ăn mà ăn chẳng được, chẳng biết làm cách nào cứu mẹ
được, nên Ngài trở về bạch với đức Phật và mong nhờ đức Phật chỉ giáo cứu mẹ
mình.
Đức Phật bày vẽ: “Trong mùa an cư
kiết hạ, chúng Tăng đang tu học thân, tâm thanh tịnh, ngày rằm tháng bảy là
ngày giải hạ, nên cung thỉnh chư Tăng cúng dường trai phạn tứ sự, nhờ ơn công
đức tu hành của các Ngài hợp lại thành một sức mạnh to lớn, với công đức nầy có
thể mới cứu mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục”.
Mục Liên vâng lệnh Phật làm y như
lời dạy, mẹ Ngài thoát cảnh địa ngục.
Qua sự tích này đã biến ngày rằm
tháng bảy trở thành một phong tục trong dân gian, ngày báo hiếu, ngày xá tội vong nhân v.v...
Câu chuyện Mục Liên Thanh Đề là
một câu chuyện phi đạo đức trong Phật giáo Đại Thừa. Một câu chuyện được dựng
lên trong thời đại phong khiến, lúc vua quan chuyên ăn lo hối lộ, mua quan bán
chức, làm những điều bất công, không công bằng, công lý.
Đạo Phật Nguyên Thủy chủ trương tự độ không
cầu tha lực độ mình. Cầu tha lực độ mình là giáo pháp của ngoại đạo, là của
Phật giáo phát triển như trên chúng tôi đã nói. Đó là một thứ giáo pháp phi đạo
đức, phi nhân quả, không công bằng và công lý.
Đọc chuyện Mục Liên Thanh Đề
chúng ta thấy đạo Phật tổ chức giống như chế độ phong kiến không khác chút nào.
Ăn lo hối lộ với những danh từ rất cao thượng:“Độ chúng sanh”.
Cha mẹ làm tội ác bị nhà vua bắt
giam cầm, tù tội, con thi cử làm quan, không cứu cha mẹ được vì tội quá nặng,
nên phải nhờ những vị quan lớn khác bằng cách phải lo lót hối lộ, (Trai tăng cúng
dường tứ sự). Nhờ có lo lót như vậy, bà Thanh Đề mới thoát cảnh tù tội A Tỳ Địa
Ngục.
Đối với một tôn giáo lớn như Phật
giáo Đại Thừa mà còn có hình thức ăn lo, hối lộ như vậy thì trên đời này còn có
nghĩa lý gì là đạo đức công bằng và công lý; còn có nghĩa lý gì gọi là đạo đức
nhân quả không làm khổ mình khổ người; còn có nghĩa lý gì là mang danh là tôn
giáo khi dạy tín đồ làm điều phi đạo đức như vậy.
Nếu trên thế gian này không có
một đạo luật nhân quả thì loài người đừng nói đến hai chữ công bằng và công lý.
Vì không bao giờ có công bằng và công lý khi mà không có luật nhân quả. Không
có một đấng Vạn Năng hay một đấng Tạo Hóa hoặc một Đức Chúa Trời hoặc một Ngọc
Hoàng Thượng Đế nào cầm cán cân công bằng và công lý cho loài người này được,
chỉ có luật nhân quả mới giữ vai trò công bằng và công lý này mà thôi. Vì nhân
quả là do hành động của mọi người tự làm tội hay vô tội đều chính nơi họ, cho
nên luật nhân quả chính là con người tạo ra, để xử phạt hay ban thưởng chính
lại họ, chứ không có một kẻ thứ hai nào khác thưởng phạt. Vì thế nó rất công
bằng và công lý, không ai lo lót và hối lộ nó được. Kẻ nào làm ác thì phải thọ
lấy quả khổ, kẻ nào làm thiện thì hưởng được phước báo.
Sau khi tu hành chứng đạo, đức
Phật dẫn tâm đến Lậu Tận Minh, Ngài đã thấy luật nhân quả rất rõ ràng, công
bằng và công lý vô cùng, cũng vì luật nhân quả có công bằng công lý như vậy,
nên con người phải chịu trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi thọ biết bao nhiêu sự
đau khổ từ kiếp này đến kiếp khác, đều do chính hành động nhân quả của họ.
Ở trên đời người ta có tiền, có
thế lực, thì người ta có thể mua được tội lỗi, nhưng với luật nhân quả thì
không thể mua tội được. Trải qua một thời gian dài từ chế độ bộ lạc mãi nô đến
chế độ phong kiến đã chứng minh điều này “Đa kim ngân Phá luật lệ”. Và mãi sau này dù cho bất cứ một chế độ nào
thì sự công bằng và công lý sẽ chẳng thực thi được trọn vẹn.
Dưới chế độ phong kiến con cháu
của vua quan có làm tội giết người, cướp của vẫn ung dung phe phẩy tự do mà
không ai làm tội làm tình được, pháp luật đối với những hạng người này như bắt
cóc bỏ dĩa.
Cho nên Giáo phát triển là một
giáo pháp bị “thế tục phong kiến hóa” với sự lý luận vụng về để lộ chơn tướng
thế tục: “Khi chư Tăng chấp nhận thọ dụng trai Tăng và tứ sự cúng dường thì hợp
lại công đức tu hành của mình thành một công đức vô lượng, công đức đó sáng
chói như ngọn đuốc trí tuệ khiến cho tâm bà Thanh Đề giác ngộ nên bà mới thoát
khỏi địa ngục”. Đó là hình thức ăn lo tập thể của chế độ phong kiến mà Phật
giáo phát triển đã bị đồng hóa.
Đó là cách lý giải không chân
thật của các nhà của kinh sách phát triển khéo che đậy lừa đảo những tín đồ mê
tín, vô minh, chứ không thể nào che đậy với những người đệ tử của Phật đã được
trang bị đạo đức nhân quả. Vì giáo pháp của đức Phật dạy rõ ràng, cụ thể người
tu sĩ phải lấy đức hạnh (giới luật) làm đầu. Chỉ có đạo đức nhân quả thì mới có
công bằng, công lý và từ bi đối với mọi người mọi loài chúng sanh. Và vì thế,
không thể nào có sự gian xảo lừa đảo dối trá theo kiểu dạy của kinh sách phát
triển như trên đã nói.
Bài kinh Vu Lan Bồn chỉ gạt những
người chưa hiểu giáo lý chân chánh và đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật.
Bài kinh Vu Lan hôm nay đã trở thành một sự lừa đảo có sách vở và đã trở thành
một truyền thống báo hiếu vô đạo đức trong lòng tín đồ Phật Giáo Việt Nam hơn
cả nghìn năm mà không ai phát giác ra được.
Mùa Vu Lan! Mùa báo hiếu! Những
danh từ này đã lặp đi lặp lại trong lòng người Phật tử hiếu hạnh Việt Nam , nhưng mấy ai đã biết sự hiếu hạnh này là phi
hiếu hạnh, là sự bị lừa đảo. Hằng năm người Phật tử đã tốn biết bao nhiêu tiền
của trong mùa Vu Lan! Mùa Báo hiếu! Một việc làm chẳng ích lợi gì cho những
người thân thương quá cố của mình, chỉ có làm lợi ích cho các nhà sư phát triển
mà thôi.
Nếu mọi người ai cũng đều thông
hiểu đạo đức nhân quả của đạo Phật thì những kinh sách phát triển phi đạo đức
của không thể lường gạt họ được như: “Vu Lan Bồn kinh, Phẩm Phổ Môn trong bộ
Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Di Đà kinh, Bát Dương kinh, Thủ Lăng Nghiêm kinh, Duy
Ma Cật kinh vv... Đó là những loại kinh sách phi đạo đức, phi chân thật, phi
Phật pháp, nó không triển khai tri kiến giải thoát và tri kiến đạo đức nhân
quả, nó khiến cho trí tuệ con người u mê, vô minh, đen tối, liệt tuệ thường
sống với sự hiểu biết mơ hồ, trừu tượng, mê tín của thế giới siêu hình tưởng,
nó dạy người làm những việc thiếu đạo đức và thiếu chân thật, thường cúng tế,
cầu cạnh, van xin, gia hộ, hộ trì v.v…
Với lòng đại từ, đại bi của chư
Phật và chúng Thánh Tăng, theo như trong kinh Vu Lan Bồn đã dạy ông Mục Kiền
Liên cứu mẹ. Giả thuyết, nếu làm được như vậy thì tất cả chúng Tăng và đức Phật
tập trung công đức tu hành giải thoát của mình lại thành một công đức vô lượng
vô biên như một ngọn đuốc khổng lồ cháy sáng rực, và hướng đến chúng sanh,
khiến cho chúng sanh ngộ được đạo lý giải thoát để mọi người ly dục ly ác pháp
thoát ra cảnh địa ngục tại tâm, thì đâu cần gì chúng sanh phải tu hành vất vả
khổ nhọc, mà cũng vẫn được giải thoát như thường, cũng giống như chư Tăng hợp
công đức tu hành của mình lại thành một trí tuệ lớn, khiến cho tâm bà Thanh Đề
ngộ được đạo lý giải thoát, liền thoát ra cảnh địa ngục A Tỳ. Nếu chư Phật và
chư Thánh Tăng làm được những điều này thì thế gian lại có thêm một tôn giáo
phi đạo đức, thì chúng tôi là những Phật tử chân chánh sẽ không chấp nhận điều
này.
Nếu chư Thánh Tăng trong thời đức
Phật đã cứu độ cho bà Thanh Đề thoát cảnh địa ngục như vậy thì với tâm đại từ
đại bi của Phật và chư Thánh Tăng không lẽ không làm điều này để độ chúng sanh
thoát khổ sao? Có lý đâu vì một cá nhân nhỏ mọn như bà Thanh Đề mà chư Tăng còn
độ được thay huống là với tất cả chúng sanh trên hành tinh này đang đau khổ mà
Phật và chư Thánh Tăng đều biết rõ, mà làm ngơ sao? Hay phải đợi cúng dường tứ
sự ? Có cúng dường tứ sự mới cứu độ thì còn gì là Phật là Thánh Tăng nữa Phải
không các bạn?
Bởi vậy, kinh điển phát triển
diễn đạt giáo lý phi đạo đức một cách cụ thể rõ ràng, thế mà mọi người vì quá
vô minh, u tối không thấy, nên bị lừa đảo, bị lường gạt một cách đau đớn.
Công đức tu hành của Phật vô
lượng vô biên mà Ngài còn từ chối không cứu độ ai hết, Ngài chỉ là một hướng
đạo viên mà thôi. Ngài đã rõ thấu đạo lý nhân quả tường tận, mà không ai hiểu
đạo lý nhân quả hơn Ngài. Do hiểu đạo lý nhân quả tường tận, dù biết rằng mình
có đủ thần lực, có vô lượng vô biên công đức, nhưng Ngài vẫn từ chối không cứu
độ ai hết, vì cứu độ là một việc làm phi đạo đức, nên Ngài dạy: “Các con hãy tự
thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là một người chỉ đường mà thôi”.
Theo đạo lý nhân quả, ai làm ác
thì phải chịu nhận lấy quả khổ, không ai cứu khổ cho kẻ làm ác được, chỉ có các
nhà thuộc kinh sách phát triển mới có một đức Bồ Tát Quan Thế Âm dám làm điều
phi đạo đức này (phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa) rồi đến chư Thánh Tăng và đức Phật
trong kinh Vu Lan Bồn mới dám cả gan làm điều phi đạo đức, phi giáo lý của Phật
để cứu bà Thanh Đề thoát cảnh địa ngục, bằng cách ăn lo tứ sự cúng dường.
Xưa, thời đức Phật còn tại thế
Ngài còn phải xin ăn để gieo duyên độ chúng sanh, nhờ có gieo duyên nhân quả
thiện như vậy, Ngài mới đủ duyên để thuyết giáo pháp của mình khiến cho chúng
sanh ngộ được chân lý giải thoát rồi mới lần lần tu tập dứt bỏ và xả ly mới
thoát cảnh địa ngục trần gian đầy đau khổ của kiếp làm người.
Các nhà thuộc kinh sách phát
triển xây dựng sự cứu độ một cách vô lý, thiếu công bằng và công lý, thế mà mọi
người vẫn tin theo, làm theo với sự thiếu suy nghĩ. Đem công đức tu hành giải
thoát của mình, hợp lại làm một ngọn đèn sáng, khiến cho người đang mê gặp ngọn
đèn này, trí tuệ bừng sáng, thoát cảnh địa ngục (nếu được như vậy thì đâu cần
gì phải tu). Đó là một thứ vọng ngữ của các nhà phát triển, để lừa đảo những
người tín đồ thiếu trí tuệ và cũng khiến cho những người có trí tuệ, hiểu biết
nghi ngờ Phật giáo và xem thường đạo Phật, cho rằng Phật giáo là một tôn giáo
mê tín, một tôn giáo không có đạo đức.
Nếu thật sự, những loại kinh sách
này là của Phật giáo thì Phật giáo không còn đất đứng trên hành tinh này nữa,
một khi thời đại dân trí càng đi lên và khoa học càng tiến bộ, thì người ta
càng rõ sự gian xảo này. Trên hành tinh này duy chỉ cần phải có một đạo đức
nhân quả và đạo đức ấy phải được phát triển đúng mức để quân bình vật chất và
tinh thần của con người được cân bằng, thì xã hội loài người mới có sự an vui,
hạnh phúc. Do thế các tôn giáo nào thiếu đạo đức, gây mê tín, tạo thế giới siêu
hình trừu tượng, viển vông, dạy những điều phi đạo đức, thường lừa đảo tín đồ,
thì phải bị khoa học chỉ mặt vạch tên và sẽ bị nhân loại đào thải khỏi cuộc
sống của họ.
Bởi vậy, câu chuyện Mục Liên
Thanh Đề là câu chuyên phi đạo đức, phi công lý, phi công bằng, phản lại đạo
đức nhân quả của Phật giáo. Sự báo hiếu của đạo Phật như trong kinh sách phát
triển là không phải của đạo Phật, kinh sách này đã bị dân gian thế tục hóa Phật
giáo theo thời đại phong kiến của nó.
Người tu sĩ đạo Phật muốn báo
hiếu cha mẹ thì phải tu hành, sống đúng giới hạnh, không hề vi phạm một lỗi
nhỏ, sống thiểu dục tri túc, ăn ngủ độc cư đúng cách, đầy đủ oai nghi chánh
hạnh, tâm thường thanh thản, an lạc, ly dục, ly ác pháp và nhập sâu Bốn Thánh
Định thực hiện Tam Minh làm chủ sự sống chết và luân hồi, thì mới báo hiếu trọn
vẹn. Còn người tín đồ muốn báo hiếu thì phải giữ gìn năm giới nghiêm túc thường
khuyên cha mẹ giữ gìn làm điều thiện, đừng làm điều ác. Đó là sự báo hiếu chơn
thật của Phật giáo.
Thực hiện được những điều này qua
đời sống gương hạnh cao quý, khiến cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp vì có nhân
duyên nhân quả nên quy tựu gặp lại nhau để nhận lấy gương hạnh đạo đức giải
thoát và giáo pháp của Phật hướng dẫn cho những người thân thương của mình từ
vô lượng kiếp để thoát ra cảnh đời đầy đau khổ. Đó là báo hiếu cha mẹ, chớ
không phải làm lễ trai Tăng cúng dường tứ sự để nhờ công đức của chư Tăng cứu
độ cha mẹ là báo hiếu.
Báo hiếu kiểu đó là báo hiếu
không thực tế, thua xa các nhà Nho giáo Đạo Khổng “Quạt nồng ấm lạnh” không làm
cho cha mẹ buồn rầu, thường làm vui lòng cha mẹ.
Sống chửi cha, mắng mẹ, làm cho
cha mẹ buồn khổ, đến khi chết rước chư Tăng cúng dường Tam Bảo để báo hiếu, thì
thật là buồn cười, bày đặt chuyện báo hiếu như vậy không đạo nghĩa và thực tế,
đó là lối lường gạt người “tiền mất tật mang”, chẳng làm ích lợi gì cho ai cả?
Trích Đường Về Xứ Phật tập VI
Xem thêm: 'Bà Chúa Ba'