Chúng ta thấy muôn loài đều đi
tìm hạnh phúc. Ðạo Phật cũng thế, cùng chung với mọi người, đạo Phật đi tìm
hạnh phúc. Và nếu dùng chữ 'tu hành' theo cái nghĩa để chỉ cuộc đi tìm hạnh
phúc, thực hiện hạnh phúc, thì quả thật, cả nhân loại không ai mà không tu
hành. Người thì tu hành thực hiện tiền tài, người thì tu hành thực hiện dục
lạc, người thì tu hành thực hiện danh vọng, người thì tu hành thực hiện trí
thức ... là những thứ mà người đời cho là hạnh phúc.
Nhưng tiếc thay, vì không thấy
trước tất cả những cái đó đều vô thường, vô ngã; tất cả những thứ đó đều vô
nghĩa trước sự vận hành không ngừng nghỉ của cuộc đời, nghĩa là sự vận hành
không ngừng nghỉ của cái chết, cho nên khổ đau, tiếc hận, không thể nắm giữ là
điều tất yếu.
Chúng ta nhớ lại, đức Phật Thích
Ca đã từ bỏ mọi thứ (những thứ mà Ngài có hơn người đời rất nhiều kể về số
lượng lẫn chất lượng) không phải vì Ngài từ bỏ hạnh phúc để đi tìm khổ hạnh
(nếu nghĩ đạo Phật là sự chối bỏ hạnh phúc, tìm kiếm khổ hạnh thì chắc là đạo
Phật đã không còn đến ngày nay; trái lại đạo Phật tích cực rốt ráo, là đạo diệt
khổ, thực hiện an vui vĩnh cửu) mà vì Ngài thấy rằng những thứ hạnh phúc mà
Ngài đang có chỉ là hạnh phúc tạm bợ đặt căn bản trên sự vô thường và vô ngã
của thế gian, bởi thế Ngài bỏ tất cả để tu hành, thực hiện cái hạnh phúc tối
thượng và vĩnh cửu, gọi là Niết bàn.
Sự từ bỏ của đức Phật là một bài
học vô giá cho thế gian, cho mỗi một thân phận con người, rằng: Hạnh phúc thì
không có ở kia, ở nơi những sự vật rỗng không và tiêu hoại, mà chỉ có ở đây,
trong sự thực hiện cái An Vui không còn bị điều kiện, cái mục đích tối thượng
của đời người mà chúng ta có thể gọi là gì tùy theo sở thích, khuynh hướng, căn
cơ: Niết bàn, Pháp thân, tính giác, Bi Trí toàn mãn, Phật tính, khuôn mặt xưa
nay ...
Trở lại với 3 sự sai lầm ở trên,
tri giác sai lầm, suy tư sai lầm và kiến thức sai lầm thì kinh điển thường đề
cập đến 4 phương diện của cái thấy sai lầm:
Vô thường mà cho là Thường
Bất toại nguyện, khổ mà cho là
tọai nguyện, vui
Vô ngã mà cho là ngã
Bất tịnh, xấu dơ mà cho là thanh
tịnh, đẹp sạch.
Do chạy đuổi theo cái thấy sai
lầm đó mà có sinh tử khổ đau. Thế gian đã đặt vấn đề sai, rồi không biết giải
quyết vấn đề hay giải quyết sai, từ đó duyên khởi ra một chuỗi mắt xích sai lầm
vô tận. Vì không thấy được bất toại nguyện, Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã cho
nên đi tìm Vui trong cái Khổ, đi tìm cái có trong cái không có, đi tìm cái
thường còn trong cái niệm niệm sinh diệt, đi tìm cái ngã trong chỗ không thể nào
có ngã, bèn đuổi bắt ảo vọng, rốt cuộc chỉ thấy có khổ, rỗng không, hoại diệt
và bất an.
Trong khi đạo Phật thì giản dị mà
sâu sắc vô cùng: ta cảm thấy đau khổ, bất an, buồn chán ư? (Khổ đế). Phải đi
tìm nguyên nhân thực sự của cái khổ đó (Tập đế). Và khi thấy rõ nguyên nhân của
nỗi khổ, nỗi khổ liền tan, vì không còn đất để mọc rễ. Khi thấy được nguyên
nhân của khổ, thì không ai tiếp tục tự làm mình khổ, khi đã thấy cái nóng, cái
bỏng là do tự mình lấy lữa châm mình thì không ai tiếp tục châm đốt mình nữa cả
(Diệt đế). Quá trình giải quyết nỗi khổ, nỗi đau bấy giờ đã rõ ràng, tùy ta có
thực hiện và thực hiện đến mức nào hay không (Ðạo đế).
Khổ, bất toại nguyện, không làm
cách gì có thể thỏa mãn, vô ích (như kinh Lăng Nghiêm nói là làm sao có thể nấu
cát thành cơm; hay kinh Viên Giác nói là làm sao có thể ngồi chờ hoa đốm kết
thành trái), thì đã làm người, ai cũng từng phải cảm nghiệm thấy. Nhưng nhìn
thấy nỗi khổ, bất toại nguyện ở nơi bản chất của chúng chớ không hời hợt nơi
hiện tượng bề mặt thì ít người thấy. Có lẽ ít trường phái triết lý nào tiếp cận
được với chân lý thứ nhất của đạo Phật là Khổ đế bằng phong trào triết học hiện
sinh ở châu Âu khoảng giữa thế kỷ 20.
Bằng cảm quan kinh tế của các nhà
văn, bằng sự suy tư sâu sắc của các triết gia, và bằng một sự đồng cảm tế nhị,
triết học hiện sinh nhìn ra tính cách khổ đế của thân phận con người; bị ném ra
ngơ ngác giữa đời sống, ngẫu nhiên, hoàn cảnh giới hạn, hữu hạn tính, cuộc đời
là sự hướng về cái chết, sự cô đơn không thể chia sẻ, sự bất định và mong manh
của kiếp người đến độ vô ích ...
Ðời người cũng vô nghĩa đến độ
khó chịu đựng như huyền thoại Sysiphe: suốt đời lăn tảng đá lên núi cao, tảng
đá sẽ rớt xuống trở lại và rồi lại lăn lên tiếp để rồi lại rớt xuống, phải
chăng đó là từng kiếp đời thất bại không thể giải thoát của con người.
Vì không thấy được Tập đế, nguyên
nhân của mọi phiền não, khổ đau, của hữu hạn và thất bại ở trên, và sự giải
quyết rốt ráo cho thân phận con người là Diệt đế, nên các nhà hiện sinh tiến
tới chọn một giải pháp sai lầm, lấy đó làm ý nghĩa cho cuộc đời.
Khi thấy cuộc đời có làm gì cũng
giới hạn giữa hai bờ sinh tử, khi thấy cuộc đời hữu hạn và vô ích đến độ phi
lý, họ đành cho con người một quyền hạn càng nhỏ và mong manh hơn khuôn khổ của
kiếp người, đó là sự nổi loạn, sự chọn lựa để biểu lộ tự do. Sự tự do trong
cuộc đời hữu hạn chật hẹp vì vọng tưởng vô minh đó ắt cũng phải là một tự do
nhỏ hẹp và buồn rầu.
Ðó là hình ảnh của người anh hùng
buồn rầu hành động để chỉ thấy hành động là vô ích trong cuốn 'Thân phận con ngườí
của André Malraux. Ðó là khi thấy trần gian này chỉ là một chốn lưu đày (như
chàng cùng tử xa xứ trong kinh Pháp Hoa), nhưng không biết quê nhà ở đâu, đành
phải ngậm ngùi chấp nhận cuộc sống lưu đày là quê nhà (tác phẩm Lưu Ðày và Quê
Nhà của A. Camus). Thật khác xa với kinh nghiệm của Ðại thừa trong cùng một lời
nói: Sinh tử tức Niết bàn. Ở đây sinh tử tức Niết bàn của Ðại thừa là thấy được
thực tướng của sinh tử là Niết bàn, khi ấy, giả tướng sinh tử bèn tiêu mất, chỉ
còn thực tướng Niết bàn đi đâu cũng là Quê Nhà.
Chúng ta thấy rằng triết học hiện
sinh đã giúp con người phản tỉnh nhìn lại thân phận hữu hạn của mình với những
vấn đề muôn đời của nó, đặt con người trước nỗi cô đơn và trống rỗng khi đối
diện với chính mình, đặt con người trước mặt cái chết không thể trốn tránh,
nhìn lại tính cách phù phiếm của mọi sự thủ hữu. Có thể nói họ đã tiếp cận được
chân lý đầu tiên của đạo Phật là Khổ đế. Nhưng họ không thể đi xa hơn để thấy
được nguyên nhân của khổ, tức là Tập đế, nên không thể giải quyết vấn đề cho
thân phận con người (Diệt đế và Ðạo đế). Do đó mà triết lý của họ trở thành bi
quan, bế tắc. Bởi vì phản tỉnh để thấy được khổ, nhưng không giải quyết được
khổ thì càng khổ hơn và không riêng gì triết lý hiện sinh mà cả văn chương, văn
học nhân loại cũng chỉ luẩn quẩn trong vòng khổ đế.
Phải nói rằng có rất nhiều người,
xưa cũng như nay, chỉ nhìn thấy Phật giáo ở giai đoạn Khổ đế này, cho nên có ý
nghĩa rất sai lầm rằng Phật giáo là bi quan, yếm thế, là xuất thế, hư vô. Nếu
chỉ dừng ở Khổ đế như triết học hiện sinh thì đạo Phật đã không là đạo Phật và
không còn là một nguồn sống cho loài người cho tới ngày nay. Ðạo Phật thì tích
cực rốt ráo, vì không chỉ nêu lên thân phận trói buộc của con người, mà còn tìm
ra nguyên nhân của sự trói buộc, chặt đứt trói buộc để giải phóng thật sự con
người bằng một con đường tất yếu.
Có lẽ vì thế mà triết lý hiện
sinh với những thủ lãnh trí thức và uy tín hàng đầu của văn hóa Tây phương chỉ
nở rộ được trong vài thập niên giữa thế kỷ 20 và khi đạo Phật đã có mặt thật sự
ở Tây phương, thì phong trào hiện sinh ở châu Âu và thế hệ Beatle ở Bắc Mỹ đã
tàn lụi nhanh chóng.
Nếu dùng danh từ hiện sinh để chỉ
sự nhấn mạnh vào cuộc sống hiện tại, đến sự cụ thể thực dụng của cái đang hiện
tiền, không mơ tưởng hão huyền ở một giải pháp nơi một đời nào khác, một nơi
nào khác, không phóng ảnh ra một thần linh ban ơn nào khác, thì phải nói không
có một thứ hiện sinh nào hơn đạo Phật, cái hiện sinh của người đã diệt khổ,
chính niệm vào hiện tại, hiện tại lạc thú:
Không hối tiếc quá khứ
Không chờ đợi tương lai
Sống vĩnh viễn hiện tại
Nên sắc thân sáng đẹp
(Tương ưng I, 6)
Ðó là cái hiện sinh "Niết
bàn hiện tiền" của Lục Tổ Huệ Năng: "Cứ theo lời ông nói, tức là
ngoài sắc thân riêng có Pháp thân, lìa sinh diệt để cầu tịch diệt (Niết bàn),
lại suy luận Niết bàn thường lạc cho là có thân thọ dụng.
Ðây là lầm chấp sinh tử, mê theo
cái vui trần gian. Nay ông nên biết, Phật vì tất cả người mê nhận thân tướng
năm uẩn là của mình, phân biệt đủ thứ pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sinh,
ghét tử, niệm niệm đổi dời, không biết là mộng huyễn hư giả, uổng chịu luân
hồi, lấy Niết bàn thường lạc đổi thành tướng khổ, trọn kiếp tìm cầu.
Phật vì thương những người mê ấy,
chỉ dạy Niết bàn chơn lạc, trong sát na không có tướng sinh, trong sát na không
có tướng diệt, lại không có sinh diệt nào để có thể diệt, ấy là Tịch Diệt Hiện
Tiền. Chính ngay khi hiện tiền, mới gọi là thường lạc. Lạc ấy không có người
thọ, cũng không có người chẳng thọ, há nói rằng Niết bàn ngăn cấm.