Trong con đường tu tập theo Phật
giáo điều quan trọng nhất là phải sống đúng giới luật, vì giới luật là đời sống
cao thượng. Người tu sĩ sống phạm giới luật là người tu sĩ không có đời sống
cao thượng do đó họ không bao giờ tu chứng đạo. Vì chứng đạo là tâm phải BẤT
ĐỘNG. Tâm BẤT ĐỘNG là tâm không phạm giới. Đức thường nhắc nhở chúng ta tu tập
phải sống đúng giới luật: “Này các thầy tỳ kheo! Không phải với cái hạ liệt có
thể đạt cái cao thượng”.
Đúng vậy đức Phật đã xác định rõ
ràng: Một người sống trong hạ liệt mà muốn chứng trong cái cao thượng thì không
thể nào chứng đạt được. Vậy sống trong hạ liệt là sống như thế nào?
Sống hạ liệt là sống chạy theo
dục lạc thế gian, tâm còn đầy tham, sân, si, mạn, nghi; tâm chưa sống ly dục ly
ác pháp mỗi chút mỗi phiền não giận hờn khổ đau; tâm còn ham muốn cái này cái
kia. Hằng ngày tâm còn phóng dật thấy cái này cái kia đều muốn nhìn ngó lưu ý
thì làm sao chứng đạt được cái cao thượng được.
Cho nên quý thầy, quý cô tu tập
thì tốt, nhưng không chứng đạo là hay nhìn ngó ra ngoài. Tại sao quý thầy, quý
cô không nhìn ngó vào thân tâm của mình mà lại nhìn ngó ra ngoài. Nhìn ngó ra
ngoài có ích lợi gì?
Khi quyết tâm tu tập để làm chủ
sinh, già, bệnh, chết thì hãy nhìn vào thân tâm của mình để làm chủ nó, nếu nó
làm sai hay làm đúng thì chúng ta đều biết liền. Biết sai thì ngăn chặn lại
không làm theo; biết đúng thì tăng trưởng và làm theo cho thân tâm mỗi ngày một
tốt hơn. Nhờ chúng ta biết tập sống như vậy nên từ chỗ sống hạ liệt trở thành
thanh cao, còn nếu không biết sống như vậy thì từ sống từ cái hạ liệt sẽ mãi
mãi sống trong cái hạ liệt. Cho nên đức Phật mới dạy như vậy: “SỐNG TRONG HẠ
LIỆT KHÔNG THỂ CHỨNG ĐẠT CÁI CAO THƯỢNG”.Dù chúng ta muốn tu chứng đạt giải
thoát mà cứ sống trong hạ liệt thì tu vô lượng kiếp cũng chẳng đi đến đâu.
SỐNG TRONG CAO THƯỢNG MỚI CHỨNG ĐẠT CÁI CAO THƯỢNG
Như chúng ta đã từng biết giới
luật đức hạnh là pháp môn tu tập hành đầu trong Phật giáo, người sống giới luật
đức hạnh là người sống trong cao thượng. Có sống trong cao thượng thì chúng ta
mới giữ gìn tâm BẤT ĐỘNG dễ dàng, còn sống phạm giới thì không bao giờ giữ gìn
tâm BẤT ĐỘNG được. Do tâm BẤT ĐỘNG mới làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT.
Cho nên đức Phật đã dạy rõ ràng:
“Nầy các thầy Tỳ kheo! Phải sống với cái cao thựơng mới đạt được cái cao thượng”.
Đúng vậy, sống trong cao thượng mới chứng cái cao thượng.
Sống trong cao thượng là sống
đúng phạm hạnh của Phật giáo tức là sống thiểu dục tri túc chỉ còn ba y một bát
tất cả đều buông xả sạch, không còn để tâm thương hay ghét, không còn ái kiết
sử trói buộc, không còn người thân kẻ sơ, không còn tài sản lớn tài sản nhỏ,
không còn tiền để dự phòng trong cuộc sống hay đau ốm, không còn đất đai ruộng
vườn, không còn nhà cửa lớn nhỏ, phải sống như đức Phật chỉ còn ba y một bát đi
xin ăn hằng ngày mà thôi.
Người sống được như vậy mới gọi
là cao thượng, như đức Phật đã từng ca ngợi và tán thán phạm hạnh này: “Đáng
đựơc tán thán, nầy các thầy Tỳ kheo! Là phạm hạnh với sự có mặt của bậc Đạo Sư,
do vậy nầy các thầy Tỳ kheo, hãy tinh tấn lên để chứng đạt những gì chưa chứng
đạt, để chứng đắc những gì chưa chứng đắc, để chứng ngộ những gì chưa chứng
ngộ”.(57 tương ưng tập 2)
Quý vị có nghe lời đức Phật dạy
trên đây không? Đó là những lời dạy về lối sống cao thượng. Sống cao thượng đức
Phật đã xác định rõ ràng: “Là phạm hạnh với sự có mặt của bậc Đạo Sư”. Có phải
chăng lời dạy này là chỉ cho sự “THÂN CẬN THIỆN HƯŨ TRI THỨC”. Nhờ thân cận
thiện hữu tri thức để thấy được những cái gì? Không phải là để nhìn thấy những
hành động Phạm hạnh sống của bậc thiện hữu tri thức sao?
Phạm hạnh của đức Phật như thế
nào?
- Ăn không phi thời.
- Ngủ không phi thời.
- Sống độc cư, phòng hộ mắt, tai,
mũi, miệng, thân, ý của mình.
- Đi đứng nhẹ nhàng, lời nói ôn
tồn nhã nhặn tức là những oai nghi chánh hạnh
Người giữ gìn bốn hạnh này là
người sống cao thượng. NGƯỜI SỐNG CAO THƯỢNG MỚI CHỨNG ĐẠT PHÁP CAO THƯỢNG.
Pháp cao thượng của Phật giáo không có gì cao thượng cả mà rất cao thượng chỉ
vì con người sống trong thế gian không làm được.
1- Điều thứ nhất: Con người thế
gian ham ăn, ăn ngày ba bữa còn ăn đêm. Ngược lại người sống trong pháp cao
thượng của Phật giáo thì không tham ăn, ăn ngày một bữa.
2- Điều thứ hai: Con người thế gian ham ngủ,
lúc nào ngủ cũng được. Ngược lại người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo
thì không tham ngủ, thường tu tập tỉnh thức sống trong tâm bất động.
3- Điều thứ ba: Con người thế
gian ham tiền bạc nhiều, ham nhà cửa cao sang đẹp đẽ, ham xe cộ này xe cộ khác.
Ngược lại người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không ham tiền
bạc, nhà cửa, xe cộ thường buông xả hết chỉ còn sống ba y một bát hằng ngày đi
xin cơm một bữa để sống tu tập.
4- Điều thứ tư: Con người thế
gian ham uy, quyền, lúc nào cũng muốn ra oai la lối nạt nộ chửi mắng người
khác. Vả lại còn muốn ăn trên ngồi trước không ai hơn mình. Ngược lại người
sống trong pháp cao thượng của Phật giáo thì không tham uy, quyền mà chỉ muốn
làm một người thấp nhất trong xã hội (người ăn mày).
5- Điều thứ năm: Con người thế
gian hay giận hờn, phiền não, lo sợ, lo đói lo sợ trộm cướp, chiến tranh, lo sợ
con cái nghèo khổ v.v… Ngược lại người sống trong pháp cao thượng của Phật giáo
thì không giận hờn, ai chửi mắng thì tha thứ thương yêu không ghét ai, nhất là
không lo sợ một thứ gì cả.
6- Điều thứ sáu: Con người thế gian tâm ưa thích
dâm dục nên lớn lên đếu lấy vợ gã chồng, nhưng người đâu biết rằng đó là con
đường khổ của thế gian, nối tiếp từ đời này đến đời khác mãi mãi khổ đau thế mà
sinh ra làm người ai cũng ưa thích v.v… Ngược lại người sống theo pháp cao
thượng của Phật giáo thì tránh xa dâm dục, thấy dâm dục như thấy rắn độc, một
khi đã bị nọc độc rắn dâm dục cắn thì suốt đời phải chịu khổ đau.
Cho nên dâm dục là con đường sinh
luân hồi, con đường bất tịnh, uế trược tràn đầy đau khổ, không đi vào con đường
này thì thôi mà hể đi vào con đường này thì khổ đau ngút ngàn. Hỡi quý vị có
trí tuệ hãy tránh xa. Ở xa nó là hạt kim cương, nhưng khi đến gần nó là giọt
nước mắt đấy quý vị ạ!
Sáu điều trên đây nếu người nào
muốn sống một đời sống cao thượng thì hãy tránh xa sáu điều hạ liệt. Có tránh
xa sáu điều hạ liệt trên đây thì đời sống mới cao thượng theo mới theo đúng
đường lối của Phật giáo. Nhờ có sống cao thượng như vậy mới chứng được pháp cao
thượng.
Người ta đừng hiểu sai là tu theo
đạo Phật phải buông bỏ hết, không còn có một vật gì còn dính trong thân tâm,
phải trống không, không ngơ. Đó là hiểu sai, người đi tu theo Phật giáo sống
thiểu dục tri túc chỉ còn ba y một bát mà thôi đó là những vật dụng cần thiết
cho một người tu hành giải thoát. Nhờ sống như vậy nên làm chủ được cái ăn, cái
ngủ và cái sống một mình. Cho nên tất cả ngũ dục lạc thế gian đều buông bỏ
xuống sạch, không còn một chút xíu nào dính trong tâm. Chúng ta lắng nghe đức
Phật dạy: “Sự xuất gia này của chúng ta sẽ không phải trống không, có kết quả,
có thành tích. Và những vật dụng chúng ta thọ dụng như y phục, đồ ăn khất thực,
thuốc trị bệnh, dầu cho những thứ này là khiêm tốn, đối với chúng ta sẽ có quả
lớn, có lợi ích lớn”.(57 Tương Ưng tập 2)
Lời dạy trên đây rất rõ ràng, vì
y phục vừa đủ để thay đổi mặc hằng ngày không thừa dư một y áo nào cả và đồ ăn
khất thực vừa đủ ăn ngày một bữa để sống rất là khiêm tốn, nhưng xét lại người
sống được như vậy thì quả giải thoát lợi ích rất lớn mà người thế gian không
thể sánh được.
Khi chúng ta sống được như vậy thì hãy lắng
nghe đức Phật dạy tiếp: “Này các thầy Tỳ kheo, thấy đựơc tự lợi là vừa đủ để
tinh tấn không phóng dật. Hay này các thầy Tỳ Kheo, khi thấy lợi tha là vừa đủ
để tinh tấn không phóng dật, hay này các thầy tỳ kheo thấy lợi cả hai là vừa đủ
để tinh tấn không phóng dật”. (58 Tương Ưng tập 2)
Lời dạy trên đây giúp chúng ta
biết pháp tu hành rất dễ dàng. Khi sống đời sống cao thượng như vậy thì điều
cần thiết là phải siêng năng sống KHÔNG PHÓNG DẬT
Khi siêng năng tinh cần tu tập
giữ gìn tâm không phóng dật thì lậu hoặc sẽ bị đoạn diệt. Vì thế, những người
này là người sáng suốt minh mẫn. Cho nên đức Phật dạy: “Này các thầy tỳ kheo,
đối với người biết, đối với người thấy. Ta nói các lậu hoặc đựơc đoạn diệt
không phải đối với người không thấy, không biết”. (58 Tương Ưng tập 2)
Người có trí tuệ mới sống không
phóng dật còn những người không trí tuệ
thường sống tâm phóng dật, thấy điều gì ưa thích thì chạy theo điều ấy
khiến cho cuộc sống bất an. Người có trí tuệ là người biết tìm sự giải thoát
nơi thân tâm mình còn người không trí tuệ thì không biết tìm giải thoát cho nên
cứ đắm mê ngũ dục lạc vì vậy cuộc đời luôn luôn sống trong khổ đau. Do đó dức
Phật dạy: “Trong đoạn diệt ấy, phải có trí tuệ đoạn diệt. Ta nói rằng trí tuệ ấy
có duyên không phải không có duyên”.
Để xác định làm sáng tỏ điều
này để mọi người triển khai tri kiến
giải thoát mà trong kinh Phật thường dạy là tu tập. Chính tu tập là triển khai
tri kiến giải thoát của mình chứ có tu tập cái gì đâu, điều mà người ta lầm
tưởng là ngồi thiền lâu tâm sẽ sinh trí tuệ, sư thật là không phải vậy. Ngồi
thiền lâu mà tâm bất động do xả tâm ly dục ly ác pháp bằng phương pháp dẫn tâm
thì làm chủ thân bệnh chứ không phải sinh trí tuệ. Trí tuệ giải thoát là do
huân tập sự sự hiểu biết giải thoát, từ đó chúng ta ly tham, sân, si, mạn, nghi
đều bằng tri kiến hiểu biết này. Cho nên chúng ta hãy nghe đức Phật dạy về nhân
duyên: “Từ duyên của trí tuệ về đoạn diệt là gì? Giải thoát là câu trả lời”.
Đúng vậy, muốn đoạn diệt sự khổ
đau của kiếp người thì phải bằng TRÍ TUỆ. Vậy TRÍ TUỆ phải hiểu biết cái gì mới
đoạn diệt khổ đau?
TRÍ TUỆ phải hiểu biết cái gì làm
cho con người khổ đau. Khi TRÍ TUỆ của chúng biết rõ cái gì làm cho đau khổ thì
chúng ta lìa xa hoặc từ bỏ hay đoạn diệt. Có lìa xa hay từ bỏ hoặc đoạn diệt
thì chúng ta có giải thoát liền. Cho nên từ duyên TRÍ TUỆ về ĐOẠN DIỆT là giải
thoát như lời đức Phật đã dạy ở trên chúng ta hãy nghe tiếp đức Phật dạy từ bỏ
hay lìa xa hoặc đoạn diệt cái gì để được giải thoát: “Từ duyên của giải thoát
là gì? Ly tham là câu trả lời”.
Muốn thoát mọi sự khổ đau trong
cuộc đời thì chỉ có LÌA XA hay TỪ BỎ hoặc ĐOẠN DIỆT tâm THAM thì giải thoát
ngay liền.
Đúng vậy nếu không đoạn diệt tâm
tham thì không bao giờ có giải thoát, muốn đoạn diệt tâm tham thì trước tiên
phải xa lìa tâm tham, có nghĩa là tâm tham khởi lên ham muốn một điều gì thì
không nên làm theo.
Vậy chúng ta hãy nghe tiếp đức
Phật dạy duyên ly tham: “Từ duyên ly tham là gì? Yễm ly là câu trả lời”.
Đúng vậy, trước khi muốn lìa tâm
tham thì phải chế ngự tâm tham làm cho tâm tham yếu đi mà đức Phật gọi là yểm
ly. Yểm ly có nghĩa là đầu tiên chúng ta khởi ham muốn một điều gì thì hãy mau
mau dừng lại không được làm theo hay chạy theo. Không làm theo không chạy theo
bằng TRÍ TUỆ như trên đã dạy.
Chúng ta tiếp tục nghe đức Phật
dạy duyên yểm ly: “Từ duyên yểm ly là gì? Tri kiến như chơn là câu trả lời.”
Đúng như lời đức Phật dạy, muốn
yểm ly thì phải dùng tri kiến hiểu biết nhân quả, hiểu biết các pháp vô thường,
hiểu biết các pháp không có pháp nào là ta là của ta, là bản ngã của ta và hiểu
biết cái nào đúng cái nào sai; kế đó còn phải hiếu biết cái nào là chân lý và
cái nào không phải là chân lý. Bởi danh từ NHƯ CHƠN của Phật dùng nơi đây chúng
ta phải hiểu nghĩa. NHƯ CHƠN ở đây có nghĩa là TÂM BẤT ĐỘNG. Tâm BẤT ĐỘNG là
thiền định cho nên đức Phật dạy: “Từ duyên của NHƯ CHƠN là gì? Định là câu trả
lời”.
Đúng vậy, NHƯ CHƠN tức là ĐỊNH mà
định là TÂM BẤT ĐỘNG. Khi tâm BẤT ĐỘNG không còn niệm vọng tưởng và hôn trầm
thùy miên vô ký xen ra, xen vô thì tâm sẽ có một niềm vui AN LẠC. Chúng ta hãy
lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của định là gì? Lạc là câu trả lời”.
Đúng vậy khi tâm có ĐỊNH thì phải
có LẠC; Tâm có ĐỊNH mà không có an lạc thì ĐỊNH đó không phải là ĐỊNH của Phật
giáo. Khi tâm có AN LẠC thì thân tâm phải có cảm giác KHINH AN. KHINH AN có
nghĩa là thân tâm khi có ĐỊNH thì thân tâm phải nhẹ nhàng và an ổn. Cho nên đức
Phật dạy có duyên ĐỊNH thì phải có duyên KHINH AN, không bao giờ có ĐỊNH mà
không có KHINH AN, cho nên ĐỊNH có là KHINH AN có, đó là duyên của chúng không
thể tách lìa ra được. Có AN LẠC là phải có KHINH AN: Chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Từ duyên của lạc là gì? khinh an là câu trả lời.”
Đúng vậy duyên của LẠC là phải có
duyên của KHINH AN, nếu thân tâm có niềm VUI thì phải có KHINH AN, đó là các
duyên theo pháp duyên khởi mà không thể tách lìa chúng ra được, cho nên nó
thuộc về 12 nhân duyên vì vậy đức Phật dạy các pháp duyên khởi rất cẩn thận và
kỹ càng không bỏ sót một duyên nào cả. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy tiếp:
“Từ duyên của khinh an là gì? Hỷ là câu trả lời”.
Đúng vậy, khi thân tâm có cảm
giác nhẹ nhàng an ổn thì rất vui mừng. Sự vui mừng này đức Phật gọi là Hỷ. Hỷ
là niềm vui, khi có niềm vui thì phải có tâm hân hoan, cho nên đức Phật dạy:
“Từ duyên của hỷ là gì? Hân hoan là câu trả lời”.
Đúng vậy, hân hoan là lòng rất
vui mừng giống như người đi xa về gặp lại những người thân. Do đâu mà có lòng
hân hoan ấy như trên đã nói người đi xa lâu ngày gặp lại nhau hay chúng ta tin
vào khả năng của mình sẽ làm nên một sự nghiệp to lớn nhưng khi làm được một
việc gì lợi ích và tốt đẹp cho mình và cho người thì lòng hân hoan phải có. Để
xác định rõ điều này chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của hân hoan là
gì? Lòng tin là câu trả lời”.
Đúng vậy, khi có lòng hân hoan
như vậy là nhờ lòng tin của chúng ta biết chắc khả năng của mình làm nên sự sự
nghiệp to lớn mà nay đã làm nên sự nghiệp to lớn thì chúng ta phải hân hoan. Có
những điều trong cuộc sống chúng ta không biết, nay có người chỉ cho chúng ta
biết như thật thì lòng tin tưởng rất mãnh liệt.
Từ xưa chưa có ai nói cho chúng
ta biết SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT là khổ. Hôm nay có người chỉ cho chúng ta biết đó
là bốn sự đau khổ của kiếp người mà không ai tránh khỏi. Kh biết rõ như thật
thì chúng ta khởi lòng tin tuyệt đối không có cái gì làm thay đổi lòng tin này
được.
Lòng tin xuất là từ sự giác ngộ
một sự thật. Biết rõ được sự thật như vậy thì lòng hân hoan không thể có bút
mực nào nói lên hết được. Xưa nay chưa ai chỉ cho chúng ta biết KHỔ như thật
thì chúng ta rất vui mừng vì chúng ta sẽ diệt chúng làm cho chúng không còn
sinh khởi được nữa. Vì vậy chúng ta hãy tiếp tục nghe đức Phật dạy: “Từ duyên
của lòng tin là gì? Khổ là câu trả lời”. KHỔ là những nỗi buồn lo lắng sợ hãi
thương ghét giận hờn, nhớ nhung, mong chờ v.v…Đó là do có một cuộc trong cuộc
sống có những người thân thương và nhưng người không ưa thích, có những vật
chất ưa thíc có những vật chất không ưa thích. Tất cả những điều gọi chung là
KHỔ.
Đúng vậy, từ lâu chúng ta chưa có
ai dạy về KHỔ, bây giờ được dạy về KHỔ, đó là một sự thật mà không ai dám phủ
nhận. Có ai dám bảo rằng SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT là không khổ? Như trên đã nói
KHỔ là do có cuộc sống. Chúng ta không tin thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ
duyên của khổ là gì? Sanh là câu trả lời”.
Đúng vậy, SANH có nghĩa là đời
sống của con người, nếu con người không có đời sống thì làm sao có KHỔ.
Trên thế gian này không ai là
không có ĐỜI SỐNG. Vậy ĐỜI SỐNG do đâu mà có. Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy:
“Từ duyên của sanh là gì? Hữu là câu trả lời”.
Đúng vậy, nếu không có của cải
tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, vợ con và những người thân, huyến thuộc,
anh em bạn hữu thì làm sao có KHỔ. Do chúng ta có và có rất nhiều cho đến những
vật ném bỏ vào đống rác mà chúng ta còn cố giữ lại thì trên đời này có vật gì
mà chúng ta bỏ. Do chúng ta không biết buông xả nên chúng ta mới chịu biết bao
nhiêu thứ khổ đau. Cho nên chúng có vật gì thì không bao giờ muốn bỏ, cố giữ
lại, giữ lại cho đến khi cái nhà ở trở thành cái nhà kho hay đúng hơn là cái
thùng rác. Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của hữu là gì? Thủ là câu
trả lời”.
Đúng vậy nếu HỮU có nghĩa là có
thì những vật chất mà chúng ta có được là do duyên HỮU, nhưng nếu chúng ta có
mọi vật nhưng chúng ta đừng có giữ lại thì làm sao có THỦ. Cho nên Phật pháp
dạy không sai nó là DUYÊN, nếu DUYÊN này có thì DUYÊN kia phải có không thể làm
sao không có được. Cho nên chúng ta sống không có DUYÊN HỮU thì làm sao có
DUYÊN THỦ. Chính vì có DUYÊN THỦ mới có DUYÊN THỦ. Những điều trên đây là do
chúng ta không biết pháp môn TÁC Ý để
phòng hộ sáu căn, nên khi vật chất đến là chúng ta dính mắc, cố chấp, giữ gìn,
bảo thủ làm của riêng của mình. Vì vậy duyên HỮU có thì duyên THỦ có, vì HỮU
THỦ có đủ nên chúng ta đang ở trong mê hồn trận mà không biết lối nào mà ra. Pháp
12 nhân duyên rất tuyệt vời, khi duyên này có thì duyên kia có theo mà khi có
theo như vậy là 12 nhân duyên đều hiện đủ. Mười hai nhân duyên đều hiện đủ thì
một thế giới khổ đau hiện bày.
Khi duyên THỦ có thì không phải
tới đây nó chấm dứt mà nó phải có duyên khác nữa, chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Từ duyên của thủ là gì? Ái là câu trả lời”.
Nếu duyên THỦ có thì duyên ÁI DỤC
có. Bởi vì có giữ lại thì phải có ưa thích, nếu không ưa thích thì làm sao
chúng ta cố giữ lại làm gì, cho nên khi có giữ lại thì phải có ưa thích. Do đó
trong kinh dạy: “Có DUYÊN THỦ thì phải có DUYÊN ÁI”.
Đúng vậy, nếu không ưa thích (ÁI)
thì làm sao chúng giữ gìn bảo thủ (THỦ) lại cho mình. Bảo thủ giữ gìn lại cho
mình là gì chúng ta ưa thích hưởng thụ những vật chất đó. HƯỞNG THỤ tức là THỌ
DỤNG. Chính vì con người ưa thích HƯỞNG THỤ mà đành chịu muôn ngàn thứ khổ đau
trong kiếp sống làm người. Từ DUYÊN ÁI có thì DUYÊN THỌ có, đó là một qui luật
của 12 nhân duyên không làm sao bảo rằng không có được. Cho nên cứ theo 12 nhân
duyên thì chúng ta sẽ những khổ đau của con người mở ra ra theo lối nào chúng
ta cũng biết rất rõ. Học 12 nhân duyên rất có lợi cho đời sống của chúng ta.
Khi chúng ta bị rơi vào duyên nào thì biết ngay, khi biết chúng tác ý không để
thân tâm dính vào duyên đó, nhờ đó mà chúng ta thoát khổ, không bị một ác pháp
nào sai khiến hay tác động vào tâm chúng ta được.
Muốn biết và đủ lòng tin với pháp
môn này không gì hơn là chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của ái
là gì? Thọ là câu trả lời”.
Đúng vậy, vì hưởng thụ những vật
chất đó nên chúng ta thường cảm nhận thích thú. Bởi vậy muốn có CẢM THỌ thì
phải có sự xúc chạm.
Ví dụ: Muốn thưởng thức một miếng
ăn ngon thì chúng ta phải ăn thực phẩm đó. Khi món ăn đó gia chạm vào miệng
lưỡi thì chúng ta mới cảm nhận món ăn
ngon hay dở. Cho nên những CẢM THỌ là nhờ có XÚC CHẠM, nếu không có XÚC CHẠM
thì CẢM THỌ không biết gì cả.
Ví dụ: chúng ta lấy tay sờ vào
chiếc nệm mới mua thì biết ngay chiếc nệm mềm và êm ái. Đó là do tay của chúng
ta XÚC CHẠM vào nệm. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của thọ là
gì? Xúc là câu trả lời?”. XÚC là sự va chạm, nên khi có CẢM THỌ là phải có sự
VA CHẠM (xúc). Sự VA CHẠM càng nhiều thì CẢM THỌ càng lớn. Người tu sĩ Phật
giáo biết như vậy, nhưng khi VA CHẠM với mọi vật thường cảnh giác tác ý: “Các
pháp là vô thường là khổ đau là nhân quả hãy ra khỏi thân tâm ta. Chúng ta
không chấp nhận một pháp nào cả hãy đi, đi! Ở đây chỉ có tâm BẤT ĐỘNG, THANH
THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ”.
Cho nên, nếu không có sự CẢM THỌ
thì làm sao cũng phải có sự ƯA THÍCH THAM ĐẮM, cho nên sự XÚC CHẠM là một điều
quan trọng vì vậy người tu hành cần phải quan tâm lưu ý SÁU CĂN đừng XÚC CHẠM
với SÁU TRẦN mà sinh ưa thích dính mắc chấp đắm. Do không đề phòng SÁU CĂN và
SÁU TRẦN XÚC CHẠM với nên con người phải chịu khổ vô cùng vô tận.
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật
dạy: “Từ duyên của xúc là gì? Sáu xứ là câu trả lời”.
Đúng vậy, do XÚC CHẠM của SÁU XỨ
nội và ngoại nên mới có THÂN TÂM của con người mà đức Phật gọi là DANH SẮC. Bởi
vậy DANH SẮC không ngoài SÁU XỨ nội và ngoại mà có được. Vạn vật trong vũ trụ
do XÚC CHẠM theo 12 nhân duyên này mà thành lập vũ trụ. Cho nên trong vũ trụ
hiện giờ các duyên đều XÚC CHẠM do đó mới có sự sinh diệt liên tục không bao
giờ dứt.
Cho nên khi giác ngộ 12 nhân duyên
chúng ta không tin có một đấng vạn năng, một ông Ngọc Hoàng Thượng Đế hay một
vị Trời nào cả sáng tạo ra vũ trụ. Những đấng ấy toàn là tưởng tri của con
người dựng lên chớ chưa từng có một người nào trên thế gian này trực tiếp gặp
các Ngài. Chỉ có những người ợ ợ ngáp ngáp lên đồng nhập xác như các phù thủy
để lừa đảo con người bằng tưởng thức xây dựng một thế giới siêu hình đầy đủ
những hồn ma người chết, đầy đủ những Thần, Thánh, Tiên, Phật, Quỷ, Ma v.v…
Khi thông suốt 12 nhân duyên
không ai có thể gạt chúng ta rằng có các cõi Trời, cõi Cực Lạc. Bởi do thông
suốt 12 nhân duyên nên đức Phật dạy: “33 cõi Trời là tưởng tri chớ không phải
liễu tri”.
Khi thông suốt 12 nhân duyên rất
có lợi, vì biết rõ vạn vật sinh ra do đâu mà có, con người sinh ra từ đâu đến
và chết đi về đâu, có linh hồn hay không có linh hồn, còn có sự sống sau khi
chết hay không? Thế giới vô hình có hay không có. Quỷ, Ma, Thần, Thánh, Tiên,
Phật, Trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế, các đấng bề trên có hay không có. Địa ngục
các vua Diêm Vương , Quỷ Sứ, Ngưu Đầu Mã Diện, Quỷ Dạ Xoa có hay không có đều
biết rất rõ. Tất cả những nhân vật này là những nhân vật tưởng tri của những
nhà văn Trung Quốc dựng lên, từ truyện Tây Du Ký, Đông Du Bát Tiên, Nam Du Huê
Quang, Bắc Du Chơn Võ, Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu, Liêu Trai Chí Dị v.v…
Tất cả nhân vật trong những
chuyên này toàn là tưởng tri của các nhà văn khéo tưởng tượng dựng lên mà viết
ra. Các nhà làm tôn giáo không thông suốt nên tin rằng những nhân vật này có
thật. Vì thế mới đem các nhân vật hư cấu trong các bộ truyên này vẽ ra hình
tượng hay tạc ra cốt tượng rồi đặt lên bàn thờ nơi trang trọng nhất trong các
đền thờ. Do vô minh không biết nên các tín đồ của các tôn giáo bỏ tiền ra xây
chùa, tháp, miếu, niệm Phật đường, thánh thất, nhà thờ v.v… Một số tiền không
phải nhỏ. Trong khi Đất nước đang xóa đói giảm nghèo mà được số tiền ấy thì
nhân dân làm sao đói, làm sao nghèo. Phải không thưa quý vị?
Đành rằng tinh thần tôn giáo là
một điều cần thiết như cơm ăn áo mặc, nhưng phải là tinh thần có đạo đức có văn
hóa, chớ không lẽ tinh thần lạc hậu mê tín quỳ lạy cầu xin những nhân vật hư
cấu như vậy ban phước lành thì thật là ngu ngốc vô cùng.
Trong thời đại được gọi là tôn
giáo văn minh, nhưng chúng tôi thấy không có văn minh chút nào cả, vì trong các
nơi thờ tự của các tôn giáo còn giữ nguyên những những hình ảnh nhân vật hư cấu
giàu tưởng tượng.
12 nhân duyên đã làm sáng tỏ thế
giới siêu hình là thế giới tưởng khiến con người không còn sống trong mê tín mù
quáng lạc hậu nữa. Mười hai nhân duyên cũng làm cho chúng ta thông suốt vũ trụ
là một thế giới duyên hợp, nên không còn ai dốt gạt được chúng ta nữa.
SÁU XỨ là sáu nơi thường tiếp xúc
với SÁU TRẦN.
SÁU XỨ là gì?
SÁU XỨ là Mắt, Tai, Mũi, Miệng,
Thân, Ý. Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là chỉ cho một con người. Một con người
là phải có đủ mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý. Cho nên nói SÁU XỨ tức là nói
con người, trong một con người có ba cái biết:
1- Ý thức.
2- Tưởng thức.
3- Thức thức.
- Ý thức là cái biết của mọi
người đang sử dụng trong cuộc sống hằng ngày.
- Tưởng thức là cái biết trong
giấc mộng, là cái biết của các nhà ngoại cảm; là cái biết của những người lên
đồng nhập xác; là cái biết của những phù thủy.
- Thức thức là cái biết của những
người đã tu chứng đạo (Tuệ Tam Minh).
Muốn biết rõ SÁU XỨ chúng ta hãy
lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của sáu xứ là gì? Danh sắc là câu trả lời”.
DANH SẮC là thân và tưởng thức
của chúng ta. Bởi THÂN NGŨ UẨN có năm uẩn: SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC. SẮC là
thân, THỌ là các cảm thọ của thân và tâm, TƯỞNG là tưởng thức, HÀNH là các hoạt
động của thân, tâm và tưởng, THỨC là cái biết của thân, tâm người đã tu chứng
đạo.
Như vậy bây giờ quý vị đã hiểu rõ
DANH SẮC. DANH SẮC chỉ là THÂN TÂM của chúng ta mà thôi.
DANH là TƯỞNG THỨC và SẮC là SÁU
THỨC. Vậy DANH SẮC gồm có bảy cái biết:
1- Nhãn thức.
2- Nhĩ thức.
3- Tỷ thức.
4- Thiệt thức.
5- Thân thức.
6- Ý thức.
7- Tưởng thức.
Cho nên nói DANH SẮC tức là nói
bảy cái thức. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của danh sắc
là gì? Thức là câu trả lời”.
Đúng vậy THỨC là bảy cái biết của
THÂN, TÂM như trên đã nói, ngoài bảy THỨC thì không có DANH SẮC. DANH SẮC không
có thì THÂN, TÂM và TƯỞNG cũng không có, mà THÂN, TÂM và TƯỞNG có là phải có sự
hoạt động, sự hoạt động đó gọi là HÀNH. Cho nên đức Phật xác định rất rõ ràng: “Từ duyên của thức là
gì? Hành là câu trả lời”.
HÀNH là sự hoạt động của thân,
tâm và tưởng, nếu thân tâm và tưởng không hành theo con đường giải thoát của
Phật giáo mà hành theo tham ái thì đó là sự hoạt động không sáng suốt. Sự hoạt
động không sáng suốt thường đem đến sự đau khổ vô cùng vô tận. Biết rõ như vậy
nên đức Phật dạy: “Từ duyên của hành là gì? Vô
minh là câu trả lời”.(61 Tương Ưng tập 2)
VÔ MINH tức là không sáng suốt,
mà hoạt động không sáng suốt là tạo ra nhiều khổ đau. Bởi vậy muốn HÀNH là phải
HÀNH theo đạo đức nhân bản của Phật giáo. HÀNH theo đạo đức nhân bản của Phật
giáo là không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh. Không làm khổ mình, khổ
người và tất cả chúng sanh là giải thoát. Đó là mục đích giải thoát của đạo
Phật.
Trong kinh Tương Ưng có chỗ ngài
Xá Lợi Phất hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu con đựơc hỏi: Này hiền giả giải thoát
như thế nào? Mà đã tuyên bố trí đã được chứng đắc. Sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, các việc làm đã làm xong, không còn trở lui trạng thái này nữa?
Con sẽ trả lời, do tự giải thoát,
do tự đoạn diệt tất cả chấp thủ, con luôn an trú tâm trong chánh niệm. Nhờ sống
an trú tâm trong chánh niệm như vậy, các lậu hoặc không còn tiếp tục rỉ chảy và
con không còn chấp tự ngã”.
Ngài Xá Lợi Phất trả lời rất
đúng. Sự giải thoát này phải do chính mình, không có một người nào giúp mình
được. Do tự chính mình phải ĐOẠN DIỆT CÁC CHẤP THỦ và phải luôn luôn SỐNG AN
TRÚ TÂM TRONG CHÁNH NIỆM, nhờ vậy mọi ác pháp không tác động được tâm. Tâm hoàn
toàn vô lậu, chứng đạt chân lý: như đức Phật đã kết luận như sau: “Tóm lại pháp
môn này gọi tắt như sau: Những cái gì được vị sa môn gọi là lậu hoặc là Ta
không còn nghi ngờ gì nữa, chúng đã được Ta diệt tận không còn phân vân gì
nữa”. (100 Tương Ưng tập 2)
Người có trí tuệ về pháp thì phải
thông suốt GIÀ, CHẾT.
GIÀ là cơ thể phải suy nhược,
răng rụng, da nhăn, tóc bạc, lưng khọm, tay chân, run rẩy, yếu đuối v.v…đó là
một sự đau khổ của kiếp người.
CHẾT là cơ thể bị hủy diệt, tử
vong, các uẩn tàn lụn, hoại diệt v.v… đó là một sự khổ mà con người không ai
tránh khỏi. Do thông suốt sự khổ đau ấy nên người có trí phải lo tu tập làm chủ
GIÀ CHẾT. Cho nên đức Phật dạy: “Này các
thầy Tỳ Kheo, vị thánh đệ tử biết già chết như vậy, biết già tập khổ như vậy,
biết già diệt như vậy, biết con đường đưa đến già chết diệt như vậy”.Một khi đã
hiểu biết như vậy thì họ sẽ cố gắng tu tập để giữ gìn TÂM BẤT ĐỘNG do đó tâm họ
sẽ vô lậu hoàn toàn không bị thời gian quá khứ và vị lai chi phối. Cho nên kinh
Tương Ưng xác định sự hiểu biết đó là PHÁP TRÍ: “Đây là PHÁP TRÍ của vị ấy. Vị
ấy với pháp này được thấy, đựơc biết, được quả tức thời, được đạt đến, được thể
nhập hướng dẫn thái độ của mình đối với quá khứ và trong tương lai”. (106 Tương
Ưng tập 2). Quý vị có hiểu lời dạy này chăng?
PHÁP TRÍ là trí tuệ hiểu biết về
các pháp sinh, già, bệnh, chết là khổ, người có PHÁP TRÍ là người biết cuộc đời
là khổ, không có vật gì trên thế gian này là ta, là của ta, là bản ngã của ta.
Hiểu được như vậy thì hãy buông xả cho sạch. Vì buông xuống cho sạch nên được
giải thoát hoàn toàn.
Khi một người có PHÁP TRÍ thì họ
không nghĩ gì về tương lai dù trong tương lai có xảy ra điều gì họ cũng chẳng
còn lo lắng buồn phiền và sợ hãi nữa. Do chẳng còn lo lắng buồn phiền sợ hãi
nên họ đang sống trong TÙY TRÍ. Vậy chúng ta muốn hiểu TÙY TRÍ thì hãy nghe đức
Phật dạy: “Những sa môn hay Bà la môn nào trong tương lai sẽ hiểu rõ già chết,
sẽ hiểu rõ già chết tập khởi, sẽ hiểu rõ già chết diệt, sẽ hiểu rõ con đường
đưa đến già chết diệt, tất cả những vị ấy sẽ hiểu biết như vậy. Như vậy, như
hiện nay Ta vậy. Đây tức là TÙY TRÍ của vị ấy”.
Người có được PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ
thì người ấy sống trong ba thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai hoàn toàn thân
tâm được giải thoát không còn một chút xíu nào lậu hoặc. Người ấy được nhập lưu
nhập vào dòng thánh, được đầy đủ trí hữu học, được đầy đủ minh hữu học. Vậy Trí
hữu học và trí minh hữu học như thế nào? Muốn biết hai loại trí này chúng ta
hãy nghe đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ Kheo! Vì rằng vị thánh đệ tử được thanh
tịnh và thuần tịnh hai loại trí: PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ. Vị ấy được gọi là thánh đệ tử đạt tri kiến,
đã đi đến diệu pháp này, đã chấp nhận diệu pháp này, đã đầy đủ hữu học trí, đã
đầy đủ trí hữu học minh, đã nhập được pháp lưu, là bậc thánh minh đạt tuệ, đã
đứng gõ vào cửa bất tử”. (107 Tương Ưng tập 2)
Trong lời dạy này rất rõ ràng
người có đủ PHÁP TRÍ và TÙY TRÍ là người hoàn toàn làm chủ sinh, già, bệnh,
chết. Người hoàn toàn làm chủ sinh, già, bệnh, chết như lời dạy trong đoạn kinh
này là người đang đứng gõ vào cửa BẤT TỬ. Vì đã đủ trí hữu học và trí minh hữu
học.
Trưởng Lão Thích
Thông Lạc