“Này Anandà, đừng nói thế! Đừng
nói thế! Giáo lý duyên khởi này sâu xa, và có vẻ sâu xa hơn. Chính vì không
hiểu rõ, không thâm nhập giáo lý này, mà nhân loại trở nên như cuộn chỉ rối
rắm, như ổ kiến rối, như cỏ babaja, không thể thoát ly khỏi khổ xứ, ác thú, địa
ngục và sanh tử”.
CHÚ GIẢI:
Con người trên hành tinh này khổ
đau vì không thông hiểu sự kết hợp thành hình của vũ trụ, nên thường sống trong
“tưởng tri”. Tưởng rằng: “Thế giới này là do một Đấng Sáng Tạo hay một ông Ngọc
Hoàng Thượng Đế tạo ra vũ trụ và vạn vật”.
Họ cho rằng: Thế giới này là thế
giới hữu hình, đang bị sự điều khiển, cai trị và xử phạt, hoặc ban thưởng do
một thế giới vô hình khác. Đó là một sự giàu tưởng tượng của con người, chứ kỳ
thực không phải như vậy. Trên đầu của loài người không có thế giới siêu hình
nào cai trị cả, mà chỉ có con người cai trị con người. Chỉ vì con người sống
không có đạo đức, nên thường làm khổ mình, khổ người gây ra bao sự đau khổ và
tang thương cho nhau, và làm bất an cho cuộc sống chung nhau, v.v..Vì thế, nên
con người phải tự đặt ra pháp luật, để ngăn chặn những điều gây đau thương và
tổn hại cho con người.
Thế giới quan của Phật giáo,
không phải là một thế giới tưởng tri, như mọi người đã tưởng và đang sống trong
tưởng tri đó. Thực tế, thế giới quan của Phật giáo là một thế giới duyên hợp do
12 duyên kết hợp mà thành.
Sáu căn tiếp xúc sáu trần lập
thành sáu thức, đó là nơi nhân sinh quan và vũ trụ quan xúc chạm tạo ra môi
trường sống của vạn vật. Cái nhìn vũ trụ quan của Phật giáo là cái nhìn vạn
pháp vô thường, chẳng có một pháp nào là chân thật, thường hằng bất biến,
thường thay đổi từng sát na. Đối với Phật giáo, vũ trụ quan không phải là một
thế giới vật lí mênh mông vô tận ở bên ngoài, như mọi người đang cảm nhận và tư
duy. Vì Phật giáo có khả năng nghe thấy và hiểu biết không có không gian và
thời gian, cho nên vũ trụ quan của Phật giáo chỉ ở trên một tụ điểm của không
gian và thời gian, từ đó nhìn thấy vạn pháp do 12 nhân duyên hợp lại mà thành.
Còn ngược lại không có cái nhìn như Phật giáo nên tưởng nghĩ vũ trụ quan mênh
mông, vô tận, vì thế loài người đang cố công tìm kiếm và nghiên cứu để biết nó
cho rõ ràng. Nhưng sức con người có hạn, còn vũ trụ vật lí là vô hạn. Cho nên,
sự tìm tòi nghiên cứu để hiểu biết về vũ trụ thì phải có một thời gian dài vô
tận. Mà với trí thức hữu hạn, thì chúng tôi tin rằng sự nghiên cứu tìm hiểu về
vũ trụ thì cái hiểu biết đó như hạt cát giữa sa mạc. Nghiên cứu tìm hiểu mà
không biết điểm khởi đầu cho sự tìm hiểu thì không bao giờ hiểu được nó.
Từ khi có mặt loài người xuất
hiện trên hành tinh này cho đến ngày nay, thường con người không ngừng tìm hiểu
vũ trụ, nhưng cuối cùng cũng chẳng ai hiểu gì nhiều về vũ trụ cả. Chỉ toàn là
tưởng tri, họ còn đang ở trong màn vô minh, đen tối. Xưa có những người cho
rằng quả đất vuông, nhưng ngày nay quả đất tròn; xưa có những người cho rằng
mặt trời đi chung quanh trái đất, nhưng ngày nay quả đất đi chung quanh mặt
trời. Do thế, những điều con người hiểu biết chưa chính xác, sự hiểu biết ấy
còn nhỏ nhoi, cái sai thì nhiều cái đúng thì ít. Còn vô lượng cái mà con người
chưa biết đến. Vũ trụ mênh mông, vạn vật vô cùng. Muốn biết nó thì phải vượt ra
ngoài nó.
Riêng thế giới quan của Phật
giáo, là một thế giới quan rất thực tế trong cuộc sống của loài người. Qua cái
nhìn thực tế ấy của Phật giáo thì thế giới quan của Phật giáo có 12 nhân duyên.
Khi 12 nhân duyên này hợp lại thì thế giới thành hình. Thế giới thành hình thì
sự khổ đau của muôn loài cũng theo đó mà có. Sự khổ đau này chính vì con người
không hiểu rõ 12 nhân duyên. Do không hiểu rõ 12 nhân duyên này, nên cho thế
giới này là thật có. Có cả hữu hình và siêu hình.
Muốn thoát ra mọi sự khổ đau này
thì người ta chỉ cần phải thấy và hiểu biết 12 nhân duyên này đúng như thật. Vì
có thấy như thật người ta mới không còn sống trong điên đảo tưởng, điên đảo
tâm, điên đảo kiến, điên đảo tình, v.v.. Khi đã hiểu biết rõ 12 nhân duyên này
thì đời sống không còn rối rắm như cuộn chỉ, như cỏ babaja, v.v.. Như lời đức
Phật dạy ông Anandà: “Này Anandà, đừng nói thế! Đừng nói thế! Giáo lý duyên
khởi này sâu xa và có vẻ sâu xa hơn. Chính vì không hiểu rõ, không thâm nhập
giáo lý này, mà nhân loại trở nên như cuộn chỉ rối rắm, như ổ kiến rối, như cỏ
babaja, không thể thoát ly khỏi khổ xứ, ác thú, địa ngục và sanh tử”.
Đúng vậy, chỉ vì con người không
hiểu sự duyên hợp của 12 nhân duyên tạo thành thế giới này, nên sinh ra nhiều
thứ điên đảo như:
1/ Điên đảo tưởng có thế giới siêu hình.
2/ Điên đảo tưởng các pháp thế gian là chân
thật, là có thật.
3/ Điên đảo tưởng có cái ta, có cái của ta và
bản ngã của ta... là chân thật có.
4/ Điên đảo tưởng tâm này có thật nên buồn
vui, sầu khổ, giận hờn, thương ghét... là chân thật có.
5/ Điên đảo tưởng thân này là thật nên bệnh
đau, tai nạn là chân thật có.
6/ Điên đảo tưởng cho vàng, bạc, ngọc, ngà,
châu báu... là chân thật có.
Mọi vật trên thế gian này có được
là do 12 duyên này hợp lại mà thành, khi 12 duyên này tan rã thì mọi vật trở về
không. Nghĩa là trên thế gian này không có một vật thường còn, vĩnh viễn; không
có một vật gì còn mãi mãi. Nếu không có 12 duyên hợp thì thế gian này là trống
không. Thế gian này trống không thì không thành là thế gian nữa. Cho nên, khi
thấu rõ 12 nhân duyên này thì người ta biết mọi vật trên thế gian này không có
vật gì thường hằng, bất di bất dịch cả. Vì thế, không có vật gì là ngã, là của
ta và cũng không có vật gì là bản ngã của ta cả.
Khi hiểu được 12 nhân duyên như
vậy, thì chúng ta không còn tham đắm và chấp trước một vật gì trên thế gian này
nữa cả. Do không còn tham đắm và chấp trước một vật gì, thì tâm hồn chúng ta
lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự
thì không còn tương ưng với dục và ác pháp thế gian nữa. Vì thế, con đường sinh
tử luân hồi chấm dứt.
Thưa các bạn, lời dạy này có đúng
chăng? Xin các bạn phải tư duy nhiều hơn nữa, để thấu triệt lời dạy này. Khi đã
thấu triệt thì các bạn có cần gì tu tập nữa đâu. Thấu triệt, có nghĩa các bạn
đã hiểu như thật. Do hiểu thế giới duyên hợp này như thật thì tâm tham, sân, si
của các bạn không còn nữa. Khi hiểu như thật thì các bạn còn tham cho ai đây?
Phải không các bạn? Khi hiểu như thật thì các bạn sân cho ai đây? Khi hiểu như
thật thì các bạn si, mạn, nghi cho ai đây? Phải không các bạn?
Những người đang sống trên thế
gian này, mà muốn con đường sinh tử luân hồi được chấm dứt, thì phải thông hiểu
và thấu suốt 12 nhân duyên, tức là thấu suốt thế giới quan của Phật giáo. Thấu
suốt được thế giới quan của Phật giáo thì tâm hồn không còn tham đắm và chấp
trước mọi vật trên thế gian này nữa như đã nói ở trên. Những người thấu suốt
được như vậy, thì lậu hoặc không còn, nên gọi là bậc A La Hán Duyên Giác.
Do sự thông hiểu, tường tận thế giới quan của
Phật giáo như thật, nên tâm tham đắm, dính mắc không còn như trên đã nói. Tâm
tham đắm dính mắc không còn, thì lậu hoặc sẽ được quét sạch. Lậu hoặc được quét
sạch thì chứng quả A La Hán ngay liền.
Thưa các bạn! Tại sao chỉ cần
thông suốt lý 12 nhân duyên như thật là chứng quả A La Hán mà không thấy tu tập
gì cả?
Thưa các bạn! Khi thông hiểu 12
nhân duyên như thật thì cuộc sống trong thế gian này, không còn có nghĩa lý gì
cả các bạn ạ! Chỉ thấy nó như là một cơn ác mộng mà thôi. Vì thế danh, lợi,
sắc, thực, thùy không còn quan trọng với họ nữa, chỉ là những ảo giác, cám dỗ
của nhân quả, để dẫn dụ lôi cuốn các bạn chìm đắm trong khổ đau và mãi mãi luân
hồi muôn kiếp.
Mười hai nhân duyên này hợp tan
tạo nên hình hài của vạn hữu giống như sóng biển, chẳng có gì là hạnh phúc, an
lạc, là êm ấm, đẹp đẽ cả... Cho nên người nào hiểu rõ được 12 nhân duyên này
như thật, thì họ buông bỏ vật chất tiền tài danh lợi trên thế gian này như ném
bỏ một chiếc giày rách, một vật phế thải không còn dùng vào một việc gì được
cả.
Do buông bỏ tất cả, không còn
chút xíu nào tiếc rẻ, ngay cả thân tâm của họ mà họ cũng không còn tiếc. Có một
câu chuyện buông bỏ tuyệt vời: “Trên núi cao thanh vắng vùng Hy Mã Lạp Sơn có
một vị ẩn sĩ tu hành đã chứng quả A La Hán. Nhiều người được biết đến, dù ở
cách xa muôn ngàn vạn dặm, người ta vẫn tìm đến Ngài và cầu xin làm đệ tử. Ngài
vui vẻ chấp nhận, nhưng phải trèo lên mỏm đá cao cheo leo trên kia và dám nhảy
xuống thì Ngài nhận làm đệ tử liền. Mãi đến nay chưa có người nào dám lao mình
xuống vực thẳm”. Đứng trên núi cao nhìn xuống vực thẳm, mà lao đầu xuống thì ai
cũng ớn lạnh. Phải không các bạn?
Như vậy, rõ ràng người ta chưa
dám buông bỏ. Chưa dám buông bỏ là người ta còn thấy thân tâm này chân thật. Còn
thấy thân tâm này chân thật là còn thấy vạn vật trong thế gian này là chân
thật. Do còn thấy như vậy, nên các bạn muốn tu giải thoát thì phải sống đúng
giới luật và tu tập theo 37 phẩm trợ đạo. Người tu tập như vậy thì không phải
người giác ngộ 12 nhân duyên. Người giác ngộ 12 nhân duyên thì họ không tiếc rẻ
một vật gì trên thế gian này, ngay cả thân mạng của họ như trên đã nói, thì tâm
hồn họ như thế nào các bạn? Thanh thản, an lạc và vô sự các bạn ạ! La Hầu La
con của đức Phật khi nghe nói thân này không phải là ta, là của ta, là bản ngã
của ta thì Ngài trở về thất tu tập không đi khất thực nữa. Bởi vì Ngài nghĩ
thân này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì đi khất thực nuôi
ai đây. Đúng vậy, Ngài là bậc Duyên Giác A La Hán, là con Phật. Còn bây giờ
chúng ta thì sao? Là con Phật (Phật tử) mà sao thích nói chuyện quá vậy? Nói
chuyện có ích lợi gì các bạn?
Khi họ buông xả sạch, không còn
tiếc rẻ một vật gì ngay cả bệnh tật khổ đau nhức nhối trong thân, họ cũng buông
bỏ chẳng hề sợ hãi, ưu tư và lo lắng nữa. Người ta buông bỏ như vậy thì tâm hồn
của họ bất động. Phải không các bạn?
Khi tâm hồn họ bất động trước các
ác pháp và các cảm thọ thì có 7 năng lực Giác Chi xuất hiện. Dù chúng ta chưa
tu tập Tứ Chánh cần, Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Chánh Niệm Tỉnh Giác,
Tứ Niệm Xứ và Thân Hành Niệm, mà chỉ cần giác ngộ 12 nhân duyên thì tâm trạng
của chúng ta cũng giống như tâm trạng tu tập Tứ Niệm Xứ vậy.
Do viên mãn tu tập Tứ Niệm Xứ mà
chúng ta nhập các định và thực hiện Tam Minh dễ dàng. Còn ở đây chúng ta chỉ
giác ngộ 12 nhân duyên, buông xả sạch vật chất thế gian thì tâm trạng chúng ta
cũng giống như người tu Tứ Niệm Xứ đã làm sung mãn Tứ Niệm Xứ, do đó chúng ta
cũng nhập các định và thực hiện Tam Minh dễ dàng. Như vậy, người tu tập Tứ Niệm
Xứ chứng quả vô lậu A La Hán, thì người giác ngộ 12 nhân duyên cũng chứng quả
vô lậu A la Hán như nhau. Họ cũng đầy đủ Tứ Như Ý Túc và cũng chấm dứt tái sanh
luân hồi.
Cho nên, đức Phật dạy:“Này
Anandà, đừng nói thế ! Đừng nói thế ! Giáo lý duyên khởi này sâu xa và có vẻ
sâu xa hơn. Chính vì không hiểu rõ, không thâm nhập giáo lý này, mà nhân loại
trở nên như cuộn chỉ rối rắm, như ổ kiến rối, như cỏ babaja, không thể thoát ly
khỏi khổ xứ, ác thú, địa ngục và sanh tử”. Xem thế chúng ta mới thấy 12 nhân duyên
là một pháp môn quan trọng vô cùng. Cho nên, bước đầu vào học và hiểu chân lý
thứ nhất của Đạo Phật. Ngài đã xác định “Đời Là Khổ”.
Vì các pháp trên thế gian này là
do các duyên hợp mà thành, có pháp nào chân thật đâu? Thế mà mọi người không
chịu buông bỏ xuống. Ôi! Con người quá điên đảo, ngu si cứ lao đầu vào ảo ảnh
mà cho rằng: các pháp như thật có, chân thật có, sao lại nay còn, mai mất? Chân
thật hạnh phúc, an lạc sao lại nay hạnh phúc, an lạc mà mai lại khổ đau, buồn
rầu? Vì không hiểu biết các pháp do duyên hợp tạo thành, nên rối rắm như cuộn
chỉ, lầm chấp cho các pháp là thật có, nên để rồi phải chịu khổ đau như loài
thiêu thân thấy ánh sáng lao đến để tìm hạnh phúc.
Mười hai nhân duyên gồm có:
1- Duyên Vô Minh; 2- Duyên Hành;
3- Duyên Thức; 4- Duyên Danh sắc; 5- Duyên Lục nhập; 6- Duyên Xúc; 7- Duyên
Thọ; 8- Duyên Ái; 9- Duyên Hữu; 10- Duyên Thủ; 11- Duyên Sanh; 12- Duyên ưu bi,
sầu khổ, bệnh chết.
Trong 12 duyên này, hễ có duyên
này có thì duyên kia có, hễ duyên này diệt thì duyên kia diệt.
Giáo lý Nguyên Thuỷ có hai ngõ
vào:
- Ngõ thứ nhất, là vào duyên SANH
đột phá bằng giới luật và 37 phẩm trợ đạo như những bậc Thinh Văn A La Hán.
- Ngõ thứ hai, là vào duyên THỌ đột
phá bằng bất động tâm như những bậc Duyên Giác A La Hán, Độc Giác Phật.
Giáo lý Đại Thừa có một ngõ vào,
đó là vào duyên VÔ MINH đột phá bằng MINH như những bậc Bồ Tát, ngõ này chỉ là
ảo tưởng nên các vị Bồ Tát chưa nếm được mùi vị giải thoát.
Thưa các bạn! Sau khi nghiên cứu
và quán xét 12 nhân duyên này xong thì các bạn thấy rõ con đường giải thoát của
Phật giáo là đạo đức nhân bản - nhân quả.
Chánh pháp của Phật đây rồi! Thế
có ai biết! Biết, sao các bạn không dám buông bỏ xuống!?
Có buông bỏ xuống thì các bạn mới
thấy rõ: đâu là ảo ảnh của hạnh phúc và đâu là chân thật của hạnh phúc!
Trưởng Lão Thích
Thông Lạc