Đi chơi với bạn, có thể một người
hay nhiều người, nhưng thấy người nào thản nhiên vứt giấy, bao bừa bãi, chúng
ta thấy là không đẹp. Dĩ nhiên, kiếm thùng rác vứt vào thì mất công và mệt nhọc
hơn. Ngồi vào bàn ăn ta thấy anh nào, cô nào húp xì xụp, bỏ thêm gia vị loạn cả
lên, giấy chùi miệng vất lung tung, gọi bồi bàn với giọng kẻ cả hách dịch, chẳng
đế ý gì đến ai, ta sẽ thấy là không đẹp. Cái đẹp (mỹ) gắn liền với cái tốt
(thiện), và cái tốt ở đây là không làm bẩn.
Ngược lại, anh nào, cô nào giả bộ
làm vẻ kiêu kỳ, chê bai cái này cái nọ, giả bộ sang trọng để dư cả đống đồ ăn, ta
cũng thấy là không đẹp. Sự không đẹp này cũng là một cách hoang phí, và do đó, phá
hoại tài sản trái đất. Cái không đẹp cũng lại là cái không tốt, không thiện. Ăn
uống là một bản năng, mà nếu thiếu nó chắc chúng ta đã chết khi sinh ra mới chỉ
vài ngày. Nhưng càng lớn lên, càng “văn minh” hơn, ăn uống không còn là bản
năng nguyên sơ, thô sống. Ăn uống để có dịp hòa mình với gia đình, để chuyện
trò, để thưởng thức ngoại cảnh và âm nhạc, văn hóa.
Bất kỳ con người nào cũng phát
xuất từ một cơ sở sinh vật, động vật và giáo dục là làm cho con người biết chế
ngự bản năng động vật của mình, thăng hoa lên thành văn hóa, văn minh. “Phát ra
đều trúng tiết thì gọi là hòa. Hòa là đạo thông suốt của thiên hạ” (Trung Dung).
Phát ra mà đều trúng tiết, đầy là cái gốc của văn minh theo quan niệm của người
xưa. Và nay chắc cũng chẳng ai thấy điều đó sai.
Vượt thắng được con người bản
năng hoang dã của mình, “điều ngự” (chữ của Phật giáo) được nó, làm chủ nó như
một phượng tiện, đó là tự chủ, là tự do. Vượt thắng bản năng, thăng hoa nó, lấy
nó làm nhiên liệu cho sự nở hoa của nhân cách con người, đó là cái đẹp của văn
minh. Chẳng hạn, những mẫu thời trang đều cố tình tôn tạo vẻ đẹp, và cố tình
che giấu những bộ phận mang tính bản năng nhất thay vì phơi bày những bộ phận
đó như một động vật không áo quần. Một mặt khác, người ta tự nhiên sợ người xì
ke hay say rượu vì lúc đó bản năng hoàn toàn chiếm ngự người kia.
Trong đời sống vợ chồng, hạnh
phúc gia đình tùy thuộc phần lớn vào sự tiết chế bản năng của cả hai người, nếu
để cho thú tính thắng văn minh thì sự rạn nứt là tất yếu. Hiện nay, có những
bạn trẻ “sống thử”, “sống chung”. Những kẻ ăn ở trước như vậy thường không lâu
bền, không tiến đến được hôn nhân, vì cả hai đều không có sự tôn trọng người
kia và gia đình cha mẹ người kia, vì cả hai đã phơi bày cho nhau thấy nhu cầu
bản năng chiến thắng nhu cầu con người, nhu cầu tình dục chiến thắng nhu cầu
tình yêu. Đó là chưa kể đến phá thai, nạo hút (VN hiện nằm trong những quốc gia
giữ kỷ lục về chuyện này) dẫn đến khó có con sau này. Y học hiện đại quan niệm
thân thể và tâm hồn là một (psychosomatique). Đây cũng là một cái nhìn Phật
giáo: Thân và tâm là một thể. Thân đã có sự mất mát thì tâm hồn cũng mang một
vết sẹo cả đời. Ai dám nói thân tôi thì tan nát nhưng tâm hồn tôi vẫn nguyên
vẹn!
Cái đẹp là sự tiết chế, sự điều
độ, điều hòa. Một trong năm đức tính được Socrate xem là cần thiết cho con
người là sự tiết chế, điều độ (moderation, Hy Lạp: sophrosune). Với Khổng giáo
là trung dung, trung hòa. Với Lão Trang là chí hòa, thiên quân. Với Phật giáo
là trung đạo. Trong khi trung dung của Khổng giáo là “ở giữa để dung hòa hai
bên đối cực” thì Phật giáo là “ở giữa và vượt lên để dung hòa hai bên đối cực”.
Khổng giáo kém hơn Phật giáo ở chỗ vượt lên này.
Chỉ nói sơ qua một đức tính con
người là tiết chế, điều độ, còn rất nhiều những tính cách khác tạo thành cái
đẹp trong phong cách con người. Chỉ xin kết luận đoạn này bằng câu nói của Ban
Tổ chức cuộc thi “Thiếu nữ Ả-rập điển hình” năm 2007: “Đức hạnh chở che và tôn
vinh sắc đẹp”(Tuổi trẻ 30-7-07).
2. Tình cảm
Tình cảm cao đẹp tạo ra vóc dáng,
khuôn mặt tươi đẹp và ngược lại, tình cảm thấp xấu tạo ra vóc dáng khuôn mặt
xấu. Đây cũng là nguyên lý thân tâm tương ứng (psychosomatique). Chẳng hạn tình
cảm “làm mẹ” tạo ra sự dịu dàng, trìu mến, thậm chí thanh khiết trên khuôn mặt
người mẹ. Như nữ tài tử Angellina Jolie khi qua Việt Nam xin con nuôi: nhìn cô bồng đứa
con, ai cũng thấy là đẹp, cái đẹp của bà mẹ hiền. Tình cảm tích cực tạo ra cái
đẹp, tình cảm tiêu cực tạo ra cái xấu. Ai giận lâu thì khuôn mặt trông xấu đi.
Với Tagore, cái đẹp của em bé là
cái đẹp của thân tâm người mẹ thời thiếu nữ:
Sự tươi mát dịu dàng, mềm mại nở trên chân tay em bé
Có ai biết từ lâu nó được giấu kín ở đâu
Vâng khi người mẹ còn là một cô gái trẻ nó đã nằm trong trái tim như
một bí ẩn của tình thương dịu dàng và lặng lẽ.
Sự tươi mát dịu dàng, mềm mại nở trên chân tay em bé.
(Cội nguồn_Trăng non)
Ở đàn ông, những tình cảm như anh
hùng (chữ của người Tây phương thường để dịch chữ Bồ tát), nghĩa hiệp (tính
cách hiệp sĩ của người Tây phương hoặc “vì nghĩa”của người Đông Á), can đảm, mạnh
mẽ, nghiêm nghị, cương trực…tạo thành cái đẹp đàn ông. Ở đàn bà thì kiên nhẫn, dịu
dàng, khoan dung, mẫn cảm…tạo thành cái đẹp phái nữ. Y học hiện đại nói rằng, trong
người nam vẫn có những yếu tố nữ, trong người nữ có những yếu tố nam. “Các con
đực và các con cái có những hoóc-môn của cả hai giới tính, tuy với những tỷ lệ
ngược nhau và chính các hoóc-môn đực có tác động kích thich hoạt động tính dục
ở phái nữ” “Nam tính không chỉ do nhiễm sắc thế Y (tạo thành nam) quyết định, mà
cả X (tạo thành nữ) nữa”. Cho nên lý tưởng là cả hai loại tình cảm đặc trưng
của cả hai phái đều có và được thăng hoa phát triển đến cao độ. Kinh Dịch nói:
“Một âm một dương gọi là Đạo”. Một người đàn ông anh hùng mà không khoan dung
thì dễ trở thành tàn bạo, vũ phu. Một người đàn bà rộng lượng mà không nghiêm
khắc sẽ trở thành dễ dãi, ba phải.
Giáo dục, và rộng hơn, văn hóa, là
để cho con người phát triển những tình cảm cao đẹp mà nếu thiếu chúng, con
người không thể trở nên “người” hơn, cao cả hơn, văn minh hơn đã đành mà còn có
nguy cơ rơi xuống những loài động vật. Những nhà khoa học lớn đều có những tình
cảm rất cao đẹp, và cụ thể họ yêu nghệ thuật như Einstein, Heisenberg, Bohr…Trong
sự phát triển của con người, trong cái đẹp của con người, chỉ số xúc cảm (EQ)
là một yếu tố không thể thiếu.
Với Phật giáo, có rất nhiều cách
để huấn luyện và thăng hoa tình cảm. Chỉ lấy một ví dụ: quán tưởng hay chiêm
ngưỡng một hình ảnh Phật hay một vị Bồ tát (hẳn là phải đẹp). Nhờ lòng ủng hộ, trong
khi nhìn, dù chỉ là một bức tường, những tình cảm tốt vốn có hạt giống trong
chúng ta sẽ nảy nở và phát triển cho đến lúc chúng ta trở thành như vị đó. Đây
là nguyên lý: chúng ta nghĩ đến cái gì nhiều thì chúng ta trở thành cái đó.
Vũ trụ theo quan niệm Đông Á gồm
có ba lãnh vực. Lãnh vực vật lý tự nhiên là thiên nhiên, đây là lãnh vực Địa. Lãnh
vực con người, đây là lãnh vực Nhân. Thứ ba là lãnh vực của cái gì siêu nghiệm,
siêu việt, cái vô hình vô tướng, đây là lãnh vực Thiên. Mỗi người đều có đủ ba
lãnh vực đó. Ví dụ Thiên là chiều kích tâm linh ở trong mỗi người. Thế nên tình
cảm xét trong toàn diện là tình cảm đối với thiên nhiên, tình cảm đối với con
người, tình cảm đối với cái siêu việt, cái thể tánh vô hình vô tướng của tất cả
mọi sự vật. Người nào có đầy đủ tình cảm với cả ba lãnh vực ấy là một người
toàn diện. Giá trị hay cái đẹp của con người được đánh giá bằng mức độ tình cảm
đối với ba lãnh vực vốn tương thông ấy.
2. Thông minh
Ai cũng thấy người đẹp phải là
mặt mày sáng sủa, nghĩa là thông minh. Sống với người ít thôn minh, ít khôn
ngoan, ít biết điều, thì thật là khổ. Có những nhà khoa học, những nhà kinh tế
chính trị, những nhà nghệ thuật có bề ngoài “xấu”, nhưng nơi họ toát ra một cái
gì sáng sủa, thông minh, và do đó đẹp. Sống ở cấp độ tư duy thì “khi”người ta
phải thanh ra, phải được nâng cấp lên. Đây là điều Mật tông Phật giáo nói rõ
khi chủ trương muốn chuyển hóa con người phải chuyển hóa khí (wind, TT:rlung). Lão
giáo cũng nói: “Tinh hóa khí, khí hóa thần”. Người xưa nói ba ngày không đọc
sách (nghĩa là hoạt động tư duy) thì soi gương thấy mặt mình xấu đi là như vậy.
Muốn gọi là trí thông minh, tư
duy, trí năng, trí quyển…hay là gì nữa cũng được, vấn đề là chúng ta phải làm
sâu sắc nó, mở rộng nó, đưa nó đến ánh sáng thay vì chốn tối tăm. Chính điều
này làm nên cái đẹp của hiểu biết.
Trí thông minh không chỉ là những
kỹ năng để sống ở đời. Nó còn phải hiểu thấu những lãnh vực tâm lý con người, xã
hội, bản chất của thế giới hiện tượng. Thông minh không chỉ ở thế giới thường
nghiệm (nói theo Phậtgiáo là thế giới Sự) mà còn thông minh đối với cái phổ
quát, cái toàn thể, cái siêu việt hình tướng (Lý). Với Phật giáo, thông minh
phải được đẩy lên đến mức độ trí huệ. Đây cũng là sự phát triển tất yếu của con
người.
Cái biết theo truyền thống Đông
phương thiên về thực hành chứ không chỉ lý thuyết. Do đó ta có từ “học hành, học
tập”. Đạo đức mà chỉ kêu gọi, không có cách thức thực hành, cách thức để đem
vào đời sống thì chỉ là “đạo đức giả”. Chẳng hạn lòng Nhân được Khổng Tử chú ý
nhiều nhất. Ông cũng dạy cho mỗi học trò tùy theo hoàn cảnh sống và trình độ, tâm
tính mà mỗi người mỗi khác. Với Phật giáo, cái biết khởi sự từ nghe dạy hoặc
đọc (Văn) rồi suy nghĩ, tư duy (Tư) sau đó là thực hành, làm theo (Tu) để cho
điều ấy hiển lộ, hiện hữu trong cuộc sống. Thế nên với Đông phương, lý tưởng
không phải là trở thành nhà bác học, mà là con người minh triết (chữ dùng của
nhà triết học Pháp F. Jullien).
Ba lãnh vực trên làm cho con
người trở nên đẹp, và đây là điều phải đào luyện, phải học hành suốt cả đời. Cái
đẹp đó xứng đáng là ý nghĩa cho cuộc đời. Chúng ta thử phân tích cái đẹp của A.
Einstein.
Con người, theo Phật giáo, có ba
thành phần chính: thân, khẩu, ý hay thân, ngữ, tâm. Ngữlà năng lực thể hiện, chẳng
hạn người ta kết thúc cuộc thi hoa hậu bằng những câu hỏi để họ thể hiện con
người bên trong của mình. Tâm là cái khó thấy, nhưng nó biểu lộ nơi cử chỉ, hành
động (Thân) và nơi năng lực thể hiện bản thân (Ngữ). Cái đẹp theo Phật giáo bao
gồm cả ba phương diện này. Về thân, Einstein không đẹp trai như tài tử, chỉ có
vẻ thông minh nơi đôi mắt và một vẻ dí dỏm khôi hài. Khi về già, về bề ngoài, nếu
nói ông giống một ông bồi bàn hay một tiều phu cũng không quá đáng. Nhưng ông
còn vẻ đẹp của khẩu hay ngữ, là những công trình ông nói hay viết. Về phần tâm,
tâm ông hẳn phải tập trung và sáng tỏ để tìm hiểu cái gì, nguyên lý nào đằng
sau thế giới vật lý (lãnh vực Chân). Niềm đam mê khám phá ấy cộng với một tấm
lòng hiền hòa, tin yêu con người, trung thực, trách nhiệm vui vẻ, ngây thơ và
dí dỏm (lãnh vực Thiện), hai cái đó đã tạo thành cái đẹp (Mỹ) của ông.
Chúng ta phải nhìn sâu rộng như
thế để nhìn chính chúng ta. Chớ tưởng rằng chúng ta “văn minh” hơn người xưa. Bây
giờ chúng ta có nhiều phương tiện gấp trăm, gấp ngàn lần những người đã sống
cách đây hơn trăm năm. Nhưng chưa chắc chúng ta đã văn minh bằng họ, chưa chắc
chúng ta có được một nhân cách đẹp như họ. Chưa chắc chúng ta đã có những tình
bạn đẹp như họ, tình nghĩa vợ chồng keo sơn như họ, nghĩa khí và trung thực như
họ, chí lớn và một sự thông minh bao quát như họ, sống có mụcđích và lý tưởng
như họ, lòng thương dân như họ…Chưa chắc chúng ta cầm được một tách trà để uống
với một cung cách văn minh như họ. Tóm lại, văn minh không phải là xài đồ đắt
tiền. Văn minh là một trạng thái tinh thần, một nhân cách, một sự phát triển
cao của toàn bộ con người mình.
4. Cái đẹp
Phim truyền hình Hàn Quốc và Việt
Nam :
Xin nói trước rằng tôi coi chưa
tới ba bộ phim Hàn Quốc trên truyền hình, mà bộ nào cũng xem từ nửa chừng hay
gần cuối. Nhưng cũng xin có vài nhận xét sơ bộ:
1. Màu sắc. Trang trí nội thất
của họ, phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ, nơi làm việc: một nền trắng pha xám
hay vàng (có lẻ màu chủ đạo của người Hàn Quốc là màu trắng, như quốc kỳ của họ
chẳng hạn), đồ vật và các thứ trang trí có màu khác nhưng không nhiều màu, hòa
hợp và tôn vinh nền trắng lên. Đâylà cái gout của châu Âu, Pháp, Ý mà người ta
hay gọi là “ton sur ton”. Y phục cũng thế, chưa chắc là đắt tiền hơn ta, nhưng
giản dị mà lịch sự, sang trọng hơn ta. Phái nữ mặc trang nhã, lịch sự, không hở
hang như ta. Cũng phải nói rằngcả hai phái chưa chắc đã đẹp bằng ta, mặc dầu có
cao to hơn Trong khi đó cách trang trí và cách ăn mặc (cả trong phim và ngoài
đời) của ta rườm rà, nhiều màu sắc, như muốn khoe của. Người ta thường nhận
thấy nhưng người sơ khai thường mặc màu chói, nguyên chất, hoa hòe, như các thổ
dân xưa kia.
2. Cử chỉ và tình cảm được tiết
chế. Họ không nói nhiều như trong phim của ta, không hoa chân múa tay nhiều như
ta, những cảnh rất bi thương họ không khóc lóc, quá bi lụy như ta, những lúc
giận dữ họ không quăng ném la hét như ta. Nói theo gout phim Pháp, họ sống nội
tâm nhiều hơn ta.
Tiết chế cử chỉ và tình cảm nói
lên tính chất cao cấp của một người Phật giáo có “oai nghi”, tức là những điều
luật áp dụng cho thân khẩu ý để cho con người “đàng hoàng”hơn, đẹp hơn, cao cấp
hơn.
3. Lễ phép. Bật truyền hình lên
thấy một cảnh nào đó, ở nhà hay chỗ làm, chúng ta biết ngay ai là cha, là con, là
con gái, bạn gái, là mẹ, là cấp trên, cấp dưới. Khi từ giã cha mẹ dù con có làm
Tổng giám đốc vẫn cúi đầu lễ phép chào, nhân viên đối với trưởng phòng cũng thế.
Tóm lại, dù bất cứ cảnh nào cũng phản ánh trật tự tôn ti (rõ nhất là của Khỗng
giáo). Tính nghiêm cẩn, không khinh suất (một trong những giá trị gia đình và
xã hội Đông Á) là một nét chính của nhân cách Hàn Quốc.
Chỉ nhận xét sơ qua ba điều trên,
phải thành thực công nhận là ta chưa bằng họ, không lịch sự, sang trọng, đứng
đắn và văn minh bằng họ. Nếu cảm quan về cái đẹp là một phương diện để biết
trình độ thẩm mỹ này, chúng ta hẳn nhận ra trình độ xã hội của chúng ta thua họ.
Chính trình độ này giải thích cho chúng ta hiểu vì sao cũng chỉ bằng một thời
gian 30 năm sau một cuộc chiến tranh tan nát như chúng ta, họ đã ở trong mười
nước giàu và văn minh nhất thế giới. Để nhận xét về “trình độ” ở trên không bị
rơi vào võ đoán, thiếu trách nhiệm, chúng ta có thể lấy một con số thực tế về
chỉ một phương diện giáo dục đại học: “Thanh niên của ta vào đại học khoảng 10%.
Ở Trung Quốc là 15%, Thái Lan 41% và Hàn Quốc tới 89%” (TTCT 19-8-07).
5. Kết
Không biết tự bao giờ, có lẽ
trong quá trình tiến hóa của con người, cái đẹp trở thành một tính chất không
thể thiếu của xã hội con người. Càng văn minh, người ta càng đam mê và càng đòi
hỏi cái đẹp trong mọi lãnh vực của con người và xã hội. Cái đẹp gắn liền với
văn minh, như khẩu hiệu “Hãy giữ cho thành phố sạch đẹp”. Cũng phải thôi, vì
chữ văn minh của người Á châu có nghĩa là cái đẹp (văn) và sự sáng (minh). Nhưng
một khuynh hướng mạnh mẽ nhất của con người là hướng đến những gì bền vững, trường
cửu. Vì thế con người cũng muốn xây dựng cho mình một cái đẹp bền vững, ít ra
cũng kéo dài cho được đến cuối đời. Cái đẹp không chỉ ở thân thể mà còn ở tâm
hồn, và cái đẹp ở tâm hồn thì bền vững hơn, sâu xa hơn, căn bản hơn, nên cái
đẹp của tâm hồn là cái nền giữ gìn cho cái đẹp thân thể ở bên ngoài.
Đi xa hơn nữa, có thể có một cái
đẹp vĩnh cửu không? Đạo Phật bảo rằng có, nếu chúng ta không chỉ hài lòng với
những tầng lớp bên ngoài, bên trên để đi đến cái Tối Hậu. Cái tối hậu ấy ở
trong tâm thức mỗi người, nó là cội nguồn của mọi đức tính và khiến cho con
người đẹp đến rốt ráo và có một đời sống đẹp đẽ nhất. Cội nguồn đó Phật giáo
goi là Như Lai tạng. Chính vì đạt đến cội nguồn tối hậu của tâm thức, mà lịch
sử loài người đã có một con người đẹp như Đức Đạt Lai Lạt Ma ngày nay. Việt Nam
ta cũng có những con người đẹp như các vua đời Lý, đời Trần, như Từ Đạo Hạnh
(tương truyền là người sáng tạo ra môn rối nước), như Nguyễn Phước Chu (thế kỷ
XVIII, người được xem là Trần Nhân Tông thứ hai)…Họ đã khai thác Như Lai tạng
để làm nên cuộc đời “đẹp đẽ, giàu có và sang trọng”của họ
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 40 |
Nguyễn
Thế Đăng