Tự do và An lạc

Thường nhật, trong chúng ta ai cũng không ít hơn một lần nghĩ đến tự do và hạnh phúc, hai yếu tố này xem ra có quan hệ mật thiết với nhau. Hễ có yếu tố này thì có yếu tố kia nó tương tác tương duyên cùng nhau. Thế nhưng để hiểu rõ nó là cái gì thì đó là vấn đề không dễ và có nhiều rối rắm phức tạp, một sự đa dạng đáng kinh ngạc.

- Một người đang ngồi nhăm nhi tách cà phê bốc khói với điếu thuốc trên môi đưa mắt nhìn mây trắng bay trên bầu trời mùa thu. Một đôi vợ chồng tay trong tay đang dạo phố mua sắm trong chiều ngày nghỉ. Một sinh viên dán mặt vào tờ thông báo trúng tuyển học bổng. Một doanh nhân đang mỉm cười với việc hoàn thành một dự án có lợi nhuận cao. Tất cả các trường hợp trên đây, có phải họ đang ở trong trạng thái hạnh phúc?


- Quan sát một bác nông dân im lặng đứng nhìn cánh đồng lúa xơ xác ngập úng sau một đợt mưa bão. Một phụ nữ có tuổi đang còng lưng dưới sức nặng của gánh hàng vội vã về chợ mỗi sáng mai. Còn rất nhiều hoàn cảnh tương tự như vậy không kể xiết. Có thể nói lên điều gì, phải chăng họ sống không hạnh phúc?

Vậy hạnh phúc là gì? Triết gia Pháp Henry Bergson nói: “Người ta định nghĩa hạnh phúc là cái gì đó phức tạp và rối rắm, một trong những quan niệm mà nhân loại đã cố tình thả nổi để mỗi người tự xác định theo cách riêng của mình”. Lẽ nào như vậy, mọi người hiểu lờ mờ như một thứ tình cảm thoáng qua chẳng có gì quan trọng, chẳng để lại một hậu quả, chúng chỉ tác động nhỏ nhoi đến chất lượng từng khoảnh khắc. Liệu có thể làm cho cái khoảnh khắc ngắn ngủi đó kéo dài hay mất vội đi không, điều mà đa số chúng ta cho rằng chúng là một thành phần căn bản của đời sống.

Ai trong chúng ta cũng thừa nhận rằng, hạnh phúc không tự giới hạn trên các cảm xúc dễ chịu, trên các niềm vui, trên các khoái cảm mạnh mẽ, trên các trạng thái thanh thản chóng qua, sau những bận rộn công việc cuộc sống. Tất cả những biểu hiện đa thù đó không đủ sức tạo nên hình ảnh trọn vẹn chân thật sâu xa của hạnh phúc và đa số trong chúng ta dễ đồng tình chia sẻ với quan niệm của Aristote: “Ngay với bản chất của hạnh phúc, người ta đã không đồng tình với nhau. Các nhà thông thái giải thích nó khác với quần chúng”.

Đâu là hạnh phúc?

Quan điểm chung của xã hội nhìn nhận hạnh phúc qua mức độ chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân hay nói cách khác hạnh phúc của một cá nhân được nhận dạng qua mức độ yêu cuộc sống của người đó, và đối với một số người yêu cuộc sống được hiểu như là sự toại nguyện với điều kiện có được của cải vật chất, thích thú với các quan hệ chung quanh cuộc đời họ. Nếu đã vậy thì rõ ràng hạnh phúc rất khó nắm bắt, hoàn toàn lệ thuộc vào những điều kiện, vào những tình huống ở bên ngoài, vượt khỏi tầm kiểm soát, chế ngự của bản thân và dường như ham muốn của con người là vô cùng, trong khi khả năng chế phục thế giới lại có hạn, nhất thời và hảo huyền.

Chúng ta bỏ ra quá nhiều thời gian để học tập, học nghề, để kết nối những quan hệ xã hội, lập gia đình, nỗ lực không ngừng cải thiện những điều kiện vật chất, và địa vị xã hội cho bản thân. Phải chăng tất cả điều đó quyết định chất lượng cuộc sống? Một sự nhầm lẫn có lẽ phổ biến giữa hạnh phúc và khoái cảm đã chiếm lĩnh trong suy nghĩ thông thường trong chúng ta, nhưng kỳ thực nó chỉ là chiếc bóng của hạnh phúc, chỉ là những gợn sóng của sự dễ chịu, sự hài lòng về mặt cảm xúc hay trí tuệ. Nó xuất hiện như một kinh nghiệm cá nhân, hội tụ vào bản thân và vì thế dễ trở thành thói quen, tật xấu xét ở góc độ tính vị ngã. Ở một cấp độ trầm trọng hơn, khoái cảm đồng nghĩa với bạo lực, ngạo mạn, tham lam và hơn nữa là tính độc ác trong cạnh tranh sinh tồn làm cho tâm trí con người bị mất thăng bằng, khiến ta bị ám ảnh do yêu thích hay ghét bỏ những chướng ngại cho khoái cảm.

Sống trong xã hội tiêu thụ, nó rất tinh vi sắc sảo, sáng tạo vô số những thú tiêu khiển giả tạo khiến con người lặn sâu vào khoái cảm và những thú vui đó lại được lặp đi lặp lại với tần suất cao có tính toán làm cho con người ngày càng bị lệ thuộc vào đó. Kỳ thực cái hạnh phúc giả vờ đó chỉ làm tăng trưởng cái bất hạnh, làm cho chất lượng cuộc sống chỉ ở trên bờ vực sâu?

Điều hiển nhiên, sự khoái cảm nào cũng chứa đựng một niềm vui thể hiện qua nụ cười, qua niềm rạng rỡ trên khuôn mặt, nhưng nó rất khác nhau một cách tế nhị với hạnh phúc, tuy rằng về bản thân của hạnh phúc rất khó định nghĩa. Nhưng để nhận dạng nó là điều có thể và khoái cảm đó thực sự gắn kết góp phần vào hạnh phúc khi nó được giải phóng khỏi tình cảm tiêu cực, và phải thêm vào đó những tố chất như trí tuệ, thiện tâm cùng với loại trừ con ma vương “cái tôi” đáng ghét. Chẳng hạn ta tỏ ra vui mừng, khoái trí đến tàn bạo khi người đối thủ đồng liêu của mình bị thất sủng trong lúc ta được thăng quan giữ vị trí chủ chốt trong cơ quan.

Theo Lama Mathieu Ricard, có một công trình thống kê so sánh đối chiếu của 2475 công trình nghiên cứu khoa học về hạnh phúc đã công bố có đưa ra ba kết luận.

1. Có đến 50% cho rằng gien trong con người ảnh hưởng đến hạnh phúc của người đó – tức yếu tố bẩm sinh.

2. Có đến 15% cho rằng ngoại cảnh như địa vị, giáo dục, tài sản, tuổi tác, dân tộc, nghề nghiệp có gây ảnh hưởng.

3. Phần còn lại như cách sống, cách nhận thức và hành động theo suy nghĩ ảnh hưởng rất lớn đến trải nghiệm hạnh phúc.

Theo tinh thần nghiên cứu tâm lý này, con người sống tại các quốc gia có bảo đảm an ninh, tự chủ và tự do, có nhiều điều kiện giáo dục, có tự do cá nhân và quyền dân chủ cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn. Hạnh phúc càng cao hơn đối với cá nhân có công ăn việc làm và được hưởng lương bổng, được tham gia các tổ chức xã hội tự nguyện v.v…

Một số đông khác trong chúng ta lại cho rằng hạnh phúc chỉ đến với những ai có tri kiến về thực tại. Tri thức không đồng nghĩa với sự tích lũy nhiều hay ít lượng thông tin và kiến thức, mà điều cơ bản là hiểu biết một cách tự do về bản chất của vạn vật không bị biến hình do tạo tác của tâm thức. Thông thường khi quan sát thế giới bên ngoài ta xem nó như một tập hợp các thực thể độc lập, tự do và qui kết cho nó các thuộc tính để từ đó sinh khởi các khoái cảm. Do vậy các khoái cảm dựa vào hư vọng, trái lại hạnh phúc lại đặt trên nền tảng là sự thật. Sự thật là lòng ham muốn danh vọng, quyền lực, giàu sang và khoái lạc đã đào một hố sâu giữa những nhận thức của con người và thực tại, từ đó nảy sinh ra xung đột nội tâm làm mất đi niềm hạnh phúc. Sự thật là thế giới hiện tượng sự vật tự bản chất là kết quả của vô hạn các nguyên nhân và điều kiện không ngừng biến dịch, không có sự vật nào tồn tại hoặc hiện hữu bởi chính nó. Với cách nhìn cơ bản đó có thể giúp ta loại trừ trạng thái mê mờ của tâm thức, giảm thiểu những xúc cảm gây bất an trong nội tâm, sống một cuộc đời thanh thản giàu lòng vị tha.

Thế còn tự do có ảnh hưởng gì đến hạnh phúc của con người?

Thông thường khi nói đến tự do, người ta nghĩ ngay đến hạnh phúc, với tư thế muốn làm gì thì làm mà không bị cấm đoán – hay nói cách khác tự do thực hiện những dục vọng để mang lại hạnh phúc. Nói như thế thì tự do đó có nghĩa là tự do để thoát ra khỏi một sự ức chế, một sự đè nén của khuôn mẫu nào đó. Thực ra đây chỉ một phản ứng và các phản ứng nối tiếp nhau phô diễn sự bám chấp quá khứ của tâm hồn. Chẳng hạn, tự do thoát khỏi sự phiền não, thoát khỏi nỗi đau, giữ lại những ký ức tốt đẹp. Tự do giữ lại thứ này, loại bỏ thứ kia.

Sự tự do đích thực là một trạng thái tâm hồn – tự do nội tâm có nghĩa là làm chủ được chính mình, vượt lên trên sự khống chế của vị ngã, của những khuynh hướng đã huân tập các thói quen từ lâu. Trong đời sống sự tự do này giúp ta cỡi mở, kiên nhẫn, hòa hợp được với tha nhân nhưng vẫn kiên định được hướng đi đã chọn lựa với một niềm vui bao hàm một năng lực chuyển hóa mạnh mẽ. Sự tự do như thế giúp cho tâm thức của ta thưởng ngoạn được cái hương vị trong sáng của khoảnh khắc hiện tại, không bị ràng buộc của quá khứ và giải phóng khỏi các dằn vặt lo âu vô bổ lôi kéo bởi tương lai, giải phóng được sự thao túng bởi lòng vị ngã, bởi sự khao khát danh vọng, tài sản, bởi sự tìm kiếm lạc thú vô độ. Sự tự do này giúp cho con người một phong thái bình dị để sống như hơi thở, không cần phải nỗ lực để rạng rỡ, để không cho mình là quan trọng, cũng không làm cho mình đáng thương, chẳng có gì để chứng tỏ, chẳng phải tìm kiếm, bởi vì mọi thứ thế là đủ.

Hạnh phúc theo quan điểm đạo Phật

Theo các luận sư Phật học, danh từ hạnh phúc mô tả một trạng thái sung mãn sinh khởi từ tâm thức thanh thản và thánh thiện, thể hiện một phẩm hạnh vượt lên cả niềm vui lẫn đau khổ, vượt qua những độc tố của tâm thức, của trí thức, không còn mê muội về bản chất của vạn vật trong thế giới hiện tượng. Hạnh phúc theo ý nghĩa đó, gắn liền với sự vận hành của tâm, cách nhìn của tâm đối với thế giới hiện tượng. Với trạng thái hạnh phúc như vậy, nội tâm sẽ bình yên không bị tổn thương khi thất bại, không thái quá lúc thành công bởi ý thức rằng những trải nghiệm đó sẽ trôi qua theo qui luật vô thường, chẳng có gì để bám chấp vào đó.

Theo đạo Phật, hạnh phúc không phải là thực thể ở bên ngoài mà ở ngay trong tâm mình, mỗi người đều mang sẵn một tiềm năng hoàn hảo, nó sẽ hiển lộ khi tâm chấm dứt thèm khát, ham muốn. Hạnh phúc chân thật là sự bình an của nội tâm. Một khi tâm hồn hoàn toàn bình an, vắng lặng bóng dáng của khát ái, lo lắng, phiền não, ích kỷ thì đó mới là hạnh phúc thật sự. Đó cũng là cách nhìn trí tuệ giúp ta nhìn thế giới như thật đúng với bản chất của nó. Sau cùng, cũng là niềm vui đạt tới tự do nội tâm và lòng vị tha tỏa sáng.
Con người hiện hữu trong cuộc đời đều không biết mình đến từ đâu, đến đây để làm gì, đến khi lìa xa thế gian không biết sẽ về đâu? Cớ sao gặp phải bao nhiêu ngang trái đau buồn? Trong một cảm xúc bất an giàu lãng mạn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có lần hỏi: “Ta là ai, là ai mà trần gian thế / Ta là ai, là ai mà yêu quá đời này”.

Đạo Phật là con đường của tuệ giác và nhờ tuệ giác soi sáng chúng ta mới thoát khổ. Đạo Phật nhắm đến những vấn đề thực tại của cuộc sống con người chứ không nhắm đến sự biện giải những vấn đề siêu hình. Đức Phật đã nhiều lần không muốn các đệ tử của mình đắm chìm trong những suy luận siêu hình, vô bổ, mất thời gian. Trong Kinh A-Hàm, Ngài có lần khuyên: “Này các vị, đừng thắc mắc rằng thế giới này là hữu hạn hay vô hạn, cõi đời này hữu cùng hay vô cùng. Dù nó là hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng thì điều mà các vị phải thừa nhận trước hết vẫn là: Cuộc đời đang đầy dẫy những đau khổ”.

Cuộc đời về bản chất là khổ, bất tịnh, vô thường, vô ngã. Hãy chuyển hóa cuộc đời, chuyển hóa bản thân, giải thoát vô minh, dục vọng để đạt đến an lạc và trí tuệ là việc cấp thiết.

Chân lý Phật học bao giờ cũng linh động và thực dụng, vì vậy con người một mặt thực tế và thành khẩn, mặt khác phải khai triển khả năng nhận thức khoáng đạt của nội tâm để mong chứng ngộ. Lý tưởng giải thoát được nuôi dưỡng bằng chất liệu của đau khổ, không phải khổ đau nhỏ bé của cá nhân mà là thực tại của con người.

Một khi ta còn bưng bít tâm hồn, không nhìn thẳng vào thực tại, còn vùi thân trong cuộc sống dễ dải của khoái cảm của dục vọng lúc đó ta không nhận thức đúng chân tướng cuộc đời thì hạnh phúc là một ảo tưởng.

xxxxx

Ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã đẩy mạnh nền kinh tế phát triển, tạo ra một khối lượng của cải vật chất và tinh thần rất đồ sộ, kích thích nhu cầu con người ngày càng đa dạng và phong phú, nhưng mặt trái của nó bộc lộ nhiều vấn nạn. Các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống bị lung lay và bị chi phối bởi những cám dỗ vật chất. Chủ nghĩa thực dụng, thói ích kỷ trục lợi theo ma chướng của đồng tiền đã làm điên đảo con người, làm cho sinh hoạt tâm lý, tình cảm và trí tuệ của con người trong xã hội cũng biến chuyển không ngừng nên việc thức tỉnh theo quan điểm hạnh phúc của đạo Phật là một thái độ cấp thiết.

Trong Kinh Đại Hạnh Phúc có chỉ rõ rằng, các phúc hạnh thật sự của đời sống có được khi ta có “một tâm ý được định hướng đúng” nghĩa là phải nhận thức đúng vị trí của mình trong thế gian, có mục tiêu đúng đắn và xác định đúng đắn con đường dẫn đến mục tiêu, có một triết lý sống giản dị nhưng đầy ý nghĩa, ở đây triết lý được hiểu là một ước vọng hướng thiện để thông hiểu bản tính và tương lai con người trong vũ trụ. Không có triết lý như vậy thì đời sống mất hướng đi, tẻ nhạt, buồn chán, bèo dạt mây trôi.

Chánh niệm là một sự tỉnh thức quan trọng. Chánh niệm là cách nhìn sự vật một cách khách quan, buông bỏ mọi xúc cảm thương ghét, thành kiến, thiên vị. Khả năng trải nghiệm được phẩm hạnh này giúp ta giảm thiểu được các ảnh hưởng xấu tác động phía bên ngoài từ các phương tiện truyền thông, kích động của xã hội tiêu thụ.

Khác hẳn với các giá trị tương đối, đôi khi là giả tạo, lời dạy của Đức Phật mang đến sự khải hiện các giá trị chân thật và tuyệt đối. Học Phật pháp không phải đọc sách tiểu thuyết giả tưởng để giải trí, giá trị của đời sống sẽ tăng thượng khi năng lượng việc học được thể hiện qua hành động và thấm nhập vào căn tính. Lúc đó một cuộc đời hạnh phúc theo nghĩa đích thực sẽ khai mở như đóa hoa sen nở khoe sắc trên bùn lầy.
Đặng Công Hanh
Previous Post
Next Post