Xem lịch sử nước ta từ xưa đến nay hơn ba nghìn năm, chỉ có gia nô mà không có quốc dân. Quyền vua có nặng, nặng không biết chừng nào; gia dĩ (1) quyền quan lại hứng đỡ quyền vua mà từng từng áp chế.
Từ cửu phẩm kể lên cho đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng, đến dân là vô phẩm, thân giá (2) lại còn gì.
Thằng này là con ngựa thằng nọ là con trâu, buộc cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi.
Gặp Đinh thì làm nô với Đinh, gặp Trần thì làm nô với Trần, gặp Lê Lý thì làm nô với Lê Lý.
Phận con hầu thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải, đã lấy làm hớn hở vênh vang; tối năm (3) đứng đầu ruộng mới được bát cơm ăn, suốt đêm ngồi bên bàn khung cửi mới được tấm áo mặc, mà mở miệng ra thì “cơm vua áo chúa”; đồng điền này, sông núi nọ mồ hôi lẫn nước mắt cày cấy mở mang, nhưng mà “chân đạp đất vua”, lại giữ chặt một hoạt kê vô lý (4).
Cái tư tưởng gia nô! Cái trí thức gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại, bắt ta phải gông đầu khoá miệng, xiềng tay xiềng chân, chịu gánh gia nô cho già đời mãn kiếp.
(1) thêm vào đó
(2) giá trị con người
(3) quanh năm
(4) ý nói: Tự mình làm ra mà lại bảo là do ơn người khác, thật là câu chuyện buồn cười
Phan Bội Châu
Cao đẳng quốc dân,1928
Sợ tự do, cam chịu làm nô lệ
Đế vương xưa chỉ dạy thờ người trên và biết nghĩa vụ của mình còn quyền lợi không cần biết đến mà cũng không có nữa.
Tục ngôi thứ đã in rất sâu vào óc người dân quê, đến nỗi những tư tưởng tự do phóng khoáng từ phương Tây truyền sang, đến luỹ tre xanh là dừng lại, biến mất như một ngọn gió mát tan vào một bầu không khí nồng nực nặng nề.
Tục vị thứ hoá ra tục sùng bái nhân tước (1) một cách u ám đê hèn và thay vào óc kính thượng (2) là một óc nô lệ đáng khinh.
Tự do cá nhân và hết thảy các tự do ở bên ta và nhất là ở nơi thôn quê chỉ là một câu chuyện hoang đường.
Cũng vì thiếu tự do - nếu ta không kể sự tự do phục tùng và tự do uống rượu – nên tình cảnh dân quê về phương diện tinh thần mới có vẻ điêu linh tàn tạ. Cũng vì thiếu tự do nên người ta đối với những công cuộc cải cách mới lạ thường có cái não ngờ vực.
Sức phản động dìm dập dân quê vào nơi ngu tối, tạo thành cho họ cái tính nô lệ, cái căn tính chịu đựng trước những sự tàn ngược ức hiếp.
(1) những tước vị do con người đặt ra
(2) Kính trọng người trên
Hoàng Đạo
Bùn lầy nước đọng,1939
Kém óc hợp quần
Đem so sánh nước ta với các nước khác như nước Tàu nước Nhật, xưa chẳng hơn ta là mấy, mà sao nay ta kém người ta xa thế ?
Người ta mười mình chưa được một: tư tưởng, văn chương, học thuật, công nghệ, thương nghiệp… đều kém hết cả.
Thế thì tại cớ làm sao ?
Dám quả quyết rằng chỉ tại người mình ít biết kính trọng mấy chữ “xã hội đồng bào” không coi mấy chữ đó làm quan hệ đến sự sinh tồn tiến hoá, nên trong xã hội không có tình tương thân tương ái, không có đoàn thể hợp quần.
Có xã hội mà vẫn lẻ loi, ai biết phận nấy, khôn sống mống chết.
Nguyễn Bân
Tình hữu ái quan hệ cho xã hội như thế nào? Hữu thanh, 1921
Lo việc nước theo lối tự tư tự lợi
Nước mất là do rất nhiều điều tệ, tội nhiều không kể hết, nhưng trong đó có bốn cái tội lớn. Một là ngoại giao hẹp hòi; hai là nội trị hủ bại; ba là dân trí bế tắc; bốn là vua tôi trên dưới tự tư tự lợi.
Vua tôi tự tư tự lợi nên không biết có dân có nước; dân cũng tự tư tự lợi nên cũng không nghĩ gì đến nước đến vua. Ngoại giao nội trị dân trí sở dĩ đồi bại như vậy cũng là do trên dưới đều tự tư tự lợi mà ra cả. Cuối cùng nước bị mất vua bị tù, thần dân đều trở nên giống người mất nước đê tiện. Cái nọc độc tự tư tự lợi nguy hại biết là dường nào.
Phan Bội Châu
Việt Nam quốc sử khảo, 1908
Cái gì cũng đổ tại trời
Thuyết mệnh trời làm cho dân ta bị trở ngại. Nước yếu không quy trách nhiệm cho chính sự tồi tệ, quốc dân bất tài mà lại nói vận số không phải do người quyết định. Lụt lội hạn hán không trách cứ là không có kế hoạch tiêu nước kịp thời, không phòng ngừa đói kém, mà lại nói thiên tai không phải do người gây nên. Dịch bệnh lan tràn thì nói con người sống chết có số, đề phòng cũng vô ích. Cùng làm một nghề, kẻ thành người bại, cũng lại nói họ gặp may, ta gặp rủi. Than ôi! sao lại có cách nói tự hại mình đến thế?
Quốc dân độc bản, 1907
Trích từ chuyên mục Người xưa cảnh tỉnhXem thêm: Thói hư tật xấu của người Việt
Học không biết cách, giỏi bắt chước
Học không biết cách
(Nguyễn Văn Vĩnh, Đông Dương tạp chí, năm 1913)
Về đạo cương thường cứ nói rằng
thâm nhiễm(1) của Tàu nhiều lắm rồi, nhưng tôi xét ra chưa có điều gì gọi là
thâm nhiễm cả. Trong hết cả số người theo Nho học thì họa là có mấy ông vào bực
giỏi, hiểu biết được đạo Khổng Mạnh. Còn những bực nhoàng nhoàng thì thường cứ
thấy người học cũng học, học cho thuộc cách mà thôi, chứ không có định trong
bụng rằng theo những điều nào, kháp(2) đạo ấy vào tính tình riêng của người
nước mình nó ra sao…
Vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức(3)
đi, mà làm ra cả một pho luật mới chép tuốt cả của Tàu, cả từ điều nước mình
có, cho đến những điều mình không có, cũng bắt chước. Thành ra luật pháp cũng
hồ đồ. Cương thường đạo lý toàn là giả dối hết cả, không có điều gì là có kinh
có điển.
(1) thâm nhiễm: ảnh hưởng sâu
sắc.
(2) kháp: tức khớp, ghép lại cho
khít, cho phù hợp
(3) bộ luật cổ của nước ta có từ
thời Lê, tham khảo nhiều từ bộ luật đời Đường.
Chỉ học theo lối mòn
(Trần Trọng Kim, Nho giáo, năm 1930)
Về đường học thuật và tư tưởng
thì xưa nay ta chỉ có mấy lối học của Tàu truyền sang: trong đời nhà Lý và nhà
Trần thì sự học của ta theo lối huấn hỗ(1) của Hán nho và Đường nho, rồi từ đời
Lê về sau thì theo cái lối học của Tống nho. Ta chỉ quanh quẩn ở trong phạm vi
của lối học ấy chứ không thoát ly được mà sáng lập ra cái học thuyết nào khác.
Phần nhiều người trong nước lại
có cái tư tưởng rằng những điều thánh hiền nói ở trong các kinh truyện đã đủ
hết cả rồi, không ai biết được hơn nữa, cho nên kẻ học giả chỉ chăm chăm theo
cho đúng những điều ấy mà tiễn lý(2) thực hành, chứ không ai để ý mà tìm cho
đến cái chân lý nó thường lưu hành biến hóa.
Cũng có người đạt tới chỗ uyên
thâm của Nho giáo, song những người ấy lại cho rằng cái học sâu xa là tự mình
phải lý hội(3) lấy chứ không thể lấy văn từ ra mà tuyên bố được. Bởi vậy các
tiên nho ở ta chỉ làm văn thơ để tả cái tính tình của mình mà thôi, không hay
làm sách vở để phát minh tư tưởng. Kết quả thành ra cái học Nho giáo thì rộng
khắp cả nước mà cái học thuyết thì không thấy có gì là phát minh vậy.
(1) lối học bám vào từng chữ để
giải thích
(2) tiễn ở đây là noi theo; tiễn
lý là theo cái lý vốn có
(3) hiểu
Giỏi bắt chước, thiếu sáng tạo
(Đào Duy Anh, Việt Nam
văn hóa sử cương, năm 1938)
Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải
là người biểu diễn ý chí tâm tình của mình, cũng không phải là người quan sát
và biểu hiện tự nhiên mà chỉ là người giỏi bắt chước những kiểu mẫu sẵn. Có
muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo, chỉ cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật
tinh tế, thật dụng công…
Bởi thế mà nghệ thuật Việt Nam
tuy có tính chất lưu động(1) và phiền phức(2), nhưng thiếu hẳn hoạt khí(3),
cách biến hóa chỉ ở trong phạm vi hình thức…
Nhiều mâu thuẫn, phá hoại, thiếu khiêm nhường
Những mâu thuẫn nội tại
(Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Nói chung người Việt có chất nghệ
sĩ nhiều hơn chất khoa học. Nhạy cảm hơn là có lý tính. Yêu thích văn học và
trang trí. Đa số chỉ mơ ước nghề làm quan là con đường đã vạch sẵn, không đòi
hỏi nhiều cố gắng độc đáo, mà lại đem đến nhiều vinh hiển.
Chẳng có mặt nào của tính cách
người Việt lại không có mặt bù lại và không gợi ra ngay tức khắc một bằng chứng
ngược lại. Chúng ta đã nói vế tính biếng nhác và sự uể oải của người Việt,
nhưng người ta chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy, và
những người lao động sẵn sàng làm những trong việc nặng nhọc trong khi chỉ nhận
được số tiền công rẻ mạt đến như vậy.
Chúng ta cũng đã nói về tính
phóng túng bông lông và mơ mộng của người Việt. Thế mà chúng ta lại cũng dễ
dàng khám phá ở người dân nơi đây một đầu óc thực tế lạ lùng, nó quyết định
chiều hướng tâm hồn người nông dân và trở nên một vũ khí lợi hại trong tay
những người thợ mỹ nghệ. Nếu tính hay thay đổi là đặc tính của người Việt thì
ta cũng phải ngạc nhiên mà nhận xét rằng trong bọn họ có một số kẻ là những tay
dai dẳng và bám riết người ta khi xin xỏ, là những kẻ sính kiện tụng không ai
địch nổi, là những học sinh sinh viên quyết chí săn đuổi bằng được bằng cấp.
Phá hoại rồi bịa ra những thứ
không đâu để thờ (Vũ Ngọc Phan, Chuyện Hà Nội, năm 1944)
Ký vãng là ký vãng. Ngậm ngùi hay
nhớ tiếc cũng đều là vô ích, nhưng đọc lại lịch sử Việt Nam , người ta không khỏi lấy làm lạ về cái tài
phá hoại của người Việt Nam
ta, một dân tộc vốn có tính thích duy trì cả những cái không đáng coi là quốc
hồn, quốc tuý.
Khiêm nhường giả, kiêu căng thật
(Phan Khôi, Báo phổ thông, năm 1930)
Có sao nói vậy mới là ngay thật.
Vẫn biết tự khiêm là một nết tốt, song làm người có sự tự tin thì mới ra người.
Cái chỗ mình đã tự tin rồi mà nói ra không dám tỏ ý quả quyết, thì lại thành ra
giả dụ, mất sự ngay thật đi.
(…) Người nước mình đã giả dối có
tiếng, mà trong đám học thức, cũng lại giả dối quá người thường. Thật bụng thì
kiêu căng tự phụ, coi người ta nửa con mắt, mà nói làm ra bộ khiêm nhường, theo
lời tục nói, ở nhà như con tép. Cái sự tự khiêm giả dối ấy mỗi ngày một thêm
lêm, làm cho sự tự tin mất đi, dần dần chẳng có ai dám chịu trách nhiệm trong
việc gì hết, mà ai ai cũng thành ra hiền nhân quân tử hết, vì chỗ tự khiêm đó.
Đó là cái bệnh di truyền mà Tống nho đã để lại.
Ai mạnh thì theo; Biếng nhác, vô cảm
Ai mạnh thì theo, bỏ hết liêm sỉ
(Phan Khôi, Luận về khí tiết, báo Hữu Thanh, năm 1923)
Sĩ phong(1) nước ta, suy đồi đi
là tự đời Lê Trung Hưng về sau. Lúc bấy giờ các Vua nhà Lê vẫn cầm quyền mà họ
Trịnh dám dấy lên cướp quyền, quan lại và sĩ dân trong nước đều theo họ Trịnh.
Hóa nên cái tâm lý sĩ phu thời ấy có hai đàng: thờ Vua Lê để tránh tiếng phản
quân, thờ họ Trịnh để kiếm đường thực lợi. Ban đầu chắc cũng có người áy náy
trong lòng, về sau tập thành quen, không còn biết thế nào là sỉ nhục.
Một người như thế thì trăm nghìn
người hùa theo, người trên như thế thì người dưới bắt chước theo, thành ra cả
một nước đều bỏ mất đại nghĩa, quên mất liêm sỉ, mà đổ xô nhau vào vòng danh
lợi. Từ đó về sau, người mình trở nên mềm như con bún, không biết vua là gì,
không biết nước là gì, hễ ai mạnh thì theo. Lòng tự trọng của người mình như
ngọn lửa đã tắt, không còn bừng lên, như hạt giống bị ẩm, không còn nứt lên được.
Lại thêm cái kiểu chuyên chế từ xưa đến nay, cứ ở trên đè xuống ở dưới(2) lên,
làm cho nhân dân ngày một đê hèn ngày một yếu ớt. Lòng tham lợi mạnh hơn lòng
tư kỷ(3) thì luồn cúi lạy lục mấy cũng chẳng từ, ưa cái sống đục hơn cái thác
trong, thì mặt dạn mày dày đâu có quản.
(1) tương tự như một thứ khí hậu
trên phương diện tinh thần.
(2) theo Tự vị An Nam Latin (1772
– 1773) đợ có một nghĩa cổ “trao của tin cho ai”, ở đây đợ lên tạm hiểu là nhẫn
nhục chấp nhận.
(3) tự ý thức về cá nhân mình.
Biếng nhác, vô cảm, lẩn tránh
(Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Hiện tượng quá đông dân và thường
xuyên thiếu việc làm khiến cho nhiều người có tâm lý sống ngày nào biết ngày
ấy. Ở thôn quê, những kẻ có chút tiền bạc hoặc có đủ ruộng chỉ còn thích ăn
không ngồi rồi.
Xét về phương diện tinh thần, xu
hướng biếng nhác này càng trầm trọng thêm bởi nền giáo dục cổ lỗ và chưa bao
giờ có phương pháp. Thành ra có sự lười biếng về trí óc, có xu hướng dễ dàng
chấp nhận hết thảy và bắt chước hết thảy. Sau khi chất đầy trí nhớ các loại
kinh sách, nhà nho xưa kia chẳng còn nghĩ đến chuyện trau dồi trí tuệ nữa. Họ
thường già trước tuổi. Hoặc là họ nhẫn nhục chịu đựng cốt không để ai đó ganh
ghét mà kiếm chuyện lại thôi. Hoặc là họ sa vào thói chơi ngông đôi khi cũng
tinh tế đấy, nhưng dễ làm cạn kiệt cái năng lực phát minh cũng như năng lực lập
luận khoa học.
Có những nhà quan sát nước ngoài
nhận xét người Việt hay trộm cắp và dối trá. Trong một thời gian dài, người dân
nước này chỉ được nhận một nền cai trị kém cỏi, trong đó thấm sâu chính sách
ngu dân. Cá nhân con người luôn luôn bị săn đuổi, họ buộc phải bao quanh mình
một tấm màn bí mật. Làng xã cũng vậy, trong quan hệ với chính quyền trung ương họ
cố giữ lấy một thái độ nếu không độc lập thì cũng ương bướng bất phục.
Dân sợ quan, việc quan hỗn hào lẫn lộn
Dân quá sợ quan
(Phạm Quỳnh, Phụ mẫu dân hay công
bộc dân, Nam Phong, năm 1926)
Một cái thiên kiến rất trái ngược
với đời nay và hiện còn phổ biến trong dân gian lắm, là cái thiên kiến coi quan
là dân chi phụ mẫu, sợ quan như sợ cha mẹ, sợ thánh thần. Bởi dân sùng phụng mê
tín quan như thế, nên quan mới có kẻ tác ác tác hại được như thế.
Cũng bởi dân sùng phụng mê tín
quan như thế nên kẻ nào chưa được quan thì cậy cục cho kỳ được, kẻ nào đã được
quan thì hết sức mà giữ lấy, củ quốc(1) xô đẩy nhau về một đường ấy, ngoại giả
không còn có học vấn, không còn có tư tưởng, không còn có sự nghiệp, không còn
có công danh gì nữa, bao nhiêu cái khôn cái khéo chỉ dùng để ăn quẩn lẫn nhau,
diễn ra trong xã hội một cái bi kịch có thể gọi là “gà què ăn quẩn cối xay”.
(1) củ: chữ Hán, nguyên nghĩa là
kết hợp lại. Củ quốc như ngày nay nói cả nước
Việc quan hỗn hào lẫn lộn
(Hoàng Đạo, Bùn lầy nước đọng,
năm 1939 )
Các cụ ngày xưa quá tin vào sự
nhiệm màu của đạo Khổng. Họ tưởng rằng lầu thuộc Tứ thư, Ngũ kinh, học hết mấy
pho sử, làm được câu thơ bài phú là có đủ đức hạnh để dạy dỗ dân, đủ tài kinh
luân để đưa dân đến cõi hạnh phúc. Họ tướng rằng đã là sĩ phu, thì là một người
hoàn toàn, một đấng thánh hiền, nên họ mới phó thác cho trách nhiệm quá nặng.
Những quyền hành lớn ấy, từ xưa
đến nay, quan trường vẫn nắm trong tay, tuy rằng cuộc sinh hoạt của dân chúng
đã đổi thay nhiều lắm. Một ông huyện chẳng hạn, không biết rằng chức phận của
mình là phải làm những việc gì nữa. Ông ta là một ông quan toà lúc xử việc kiện
tụng, một ông cẩm(1) lúc coi sóc việc trị an, một viên chức sở lục lộ(2) lúc
thúc dân hộ đê… Đó là không kể cai trị là công việc chính của ông ta. Bấy nhiêu
nhiệm vụ hỗn hào lẫn lộn là một điều khó khăn cho ông quan mà cũng là cái mầm
cho sự lạm quyền. Và đối với những ông quan không theo đuổi một lý tưởng gì cao
siêu, đó lại là một cái mầm cho sự ăn tiền.
(1) cảnh sát. (2) sở giao thông.
Đã thành bia miệng trong dân
(Trần Huy Liệu, Một bầu tâm sự,
năm 1927)
Khi chưa được làm quan thì lo lót
luồn cúi để được làm quan, khi đã được làm quan thì cho rằng cái cầu phú quý đã
tới nơi rồi, mất tất cả cái đức tính liêm sỉ, quên hết cả cái giá trị thanh
cao. Mài dao cho sắc mà khoét xương dân, há họng cho lớn mà hút máu dân. Những
câu cửa miệng “túi tham không đáy”, “đèn trời thắp bằng mỡ dân”, “cướp đêm là
giặc cướp ngày là quan” đã là cái bằng cấp danh dự của đám quan trường kia vậy.
Nặng óc hư danh, Sống không lý tưởng
Nặng óc hư danh
(Phạm Quỳnh, Danh dự luận, Nam
phong, 1919)
Dân ta là dân rất hiếu danh, mà
hiếu hư danh, tật đó dẫu người nông nổi xét xã hội mình cũng đủ biết. Từ trên
xuống dưới từ thấp chí cao, từ anh khố rách trong làng cố cầu cạnh cho được
chức trương tuần phó lý để được người ta khỏi gọi là bố đĩ, bố cu cho đến bậc
phú thương nơi thành thị thi nhau mà mua lấy tiếng ông bá ông hàn để ra mặt
thượng lưu trong xã hội, cậu cả cậu hai luồn lót hàng chục hàng trăm để được
gọi là thầy thông thầy phán, hết thảy đều như có cái ma lực nó run rủi, phải cố
chuốc lấy chút danh tiếng hão mới mãn nguyện.
Không có lòng danh dự mà có tính
hiếu danh thời dễ táng thất lương tâm. Quỵ lụy khúm núm trước mặt người trên,
châu tuần(1) nơi quyền quý để cầu sự nọ, khấn việc kia, ví phải đập đầu xuống
đất mà lạy cũng cam tâm. Xét cái danh dự phổ thông trung xã hội, cái danh dự
hàng ngày hiển hiện ra trong cuộc giao tế(2), thời phải chịu rằng người mình ít
có thật.
(1) loanh quanh chầu chực nơi nào
đó.
(2) quan hệ trao đổi tiếp xúc với
nhau.
Sống không lý tưởng
(Hoa Bằng, Hư sinh, Tri Tân,
1943)
Có chí mà không làm nổi, đó là vì
tài lực không đủ thật không đáng trách. Nhưng trong chúng ta, đáng trách là
hạng người sau: sống ở đời, không có mục đích gì cao hết. Họ không có một cuộc
đời lý tưởng. Họ không coi một thứ gì là đáng ham chuộng, ngoài sự làm tôi đồng
tiền mặc dầu phải quăng bỏ liêm sỉ bán rẻ nhân cách.
Ngoài ra, lại còn một hạng cho ai
cũng là người võ vị, việc gì cũng là việc không đáng làm, ngất ngưởng qua ngày,
hững hờ đoạn tháng, để đồng tiền huyết hãn(1) của cha, mẹ, vợ, con vào vòng
trời hoa đất rượu, phung phí tuổi giàu sức khoẻ vào những cuộc đỏ đen suốt
sáng, mây khói thâu canh. Họ chỉ cốt sống để tìm những thỏa mãn về vật dục(2)…
(1) huyết: máu, hãn: mồ hôi, ngày
nay hay nói mồ hôi nước mắt.
(2) mọi ham muốn vật chất.
Tự giam hãm, kéo bè cánh, kiếm chác
Tự giam hãm mình trong lũy tre
làng
(Trần Huy Liệu, Một bầu tâm sự,
năm 1927)
Tục nước mình thường hay thiên
trọng ở chốn hương thôn, quanh năm suốt tháng lẩn quẩn ở trong làng, chiếm được
một chỗ ngồi nơi hương đảng đã lấy làm vinh dự, tranh nhau làm ông phó, tranh
nhau làm ông xã, tranh nhau ăn trên, tranh nhau ngồi cao, chửi mắng nhau, đánh
đập nhau, kiện tụng nhau. Cái câu “Hương đảng tiểu triều đình”(1) cùng “Một
miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” luôn luôn ở cửa miệng. Có nhiều người hết
cơ, hết nghiệp vì một việc tức khí nơi hương thôn. Có nhiều người khánh kiệt
gia tài vì một bữa hương ẩm(2).
Ngoài cái làng ra, không còn biết
đến nước nhà là gì, thế giới là gì. Vì vậy mà tư tưởng cục cằn kiến văn chật
hẹp. Mấy dãy tre nơi đầu làng đã là cái khám nhốt người ta rồi. Không những
không có người nào ra ngoại quốc học tập làm ăn, mà ngay đến trong nước, mỗi
tỉnh mỗi xứ cũng coi như một thế giới riêng.
(1) làng xóm là một triều đình
thu nhỏ
(2) cuộc ăn uống mời gần như cả
làng
Kéo bè kéo cánh nắm giữ quyền lực
(Phan Kế Bính,Việt Nam phong tục,
năm 1915)
Xét cách bầu cử tổng lý của ta
khi xưa thật lắm phiền nhiễu mà phần nhiều dùng cách tư tình(1), những người
làm việc chẳng qua lại là con cháu họ hàng với những chức sắc kỳ mục. Trừ ra
những làng khó khăn không ai muốn làm không kể, còn về các làng tốt bổng(2),
con cái nhà có thế lực tranh nhau mà ra, có mấy khi lọt vào tay người khác
được. Vì thế lý dịch hay có bè đảng, mà nhất là hay a dua với hàng kỳ mục(3) để
dễ cho sự thầm vụng của mình.
(1) tức sử dụng những mối quan hệ
cá nhân
(2) có nhiều quyền lợi
(3) kỳ mục là những người có thế
lực nói chung, còn lý dịch là những người đương làm việc, đương nắm quyền.
Đám đông chỉ chờ kiếm chác
(Vũ Văn Hiền, Mấy nhận xét nhỏ về
dân quê Bắc Kỳ, Thanh Nghị, năm 1944)
Việc làng thường định vào những
ngày tuần tiết, là những ngày ở đình có tế lễ và ăn uống. Khi nào có việc gì
khêu gợi sự cạnh tranh và đụng chạm đến những quyền lợi có sẵn thì số người ra
họp rất đông. Còn khi nào chỉ họp để dự định công việc mới mẽ nhưng chưa ai
thấy lợi trực tiếp cho mình thì buổi họp rất vắng. Nhiều người chỉ ra tế lễ ăn
uống rồi về mà cũng chẳng có lề luật nào định phải có bao nhiêu người dự bàn
mới là đủ.
Tầm thường, Phù phiếm, Hiếu danh
Chỉ biết theo đuổi những giá trị
tầm thường (Dương Bá Trạc, Tiếng gọi đàn, năm 1925)
Danh dự là có tài có đức có công
nghiệp(1) có khí tiết thật, còn kẻ chạy theo hư vinh chỉ lo đâm đầu đâm đuôi
chạy xuôi chạy ngược để cầu cạnh chen chúc, làm sao cho có được cái mã ngoài ấy
thì tất là lộn sòng về cái chân giá trị. Nào trong xã hội mấy ai là người biết
cân nhắc so sánh, mà vẫn thường lầm cái hư vinh là cái danh dự thực!
Hỏi trọng gì, ắt là võng lọng cân
đai, hỏi quỷ ai, tất là ông cả bà lớn, hỏi cái gì là sang, tất là xe ngựa lâu
đài ngọc ngà gấm vóc, hỏi cái gì là sướng, tất là ăn trên ngồi trốc, nhận lễ
thu tiền. Rồi xu phụ khéo luồn lọt bợm để cẩu vinh, ấy là người giỏi, giết
người tợn tâng công khỏe để cầu vinh, ấy là người tài, lắm quan thày tốt, thần
thế lo gì cũng xong xin gì cũng được, ấy là anh hùng, nạt con em ức hiếp hàng xóm,
anh làm ông nọ, em làm ông kia, ấy là nhà có phúc, khao phẩm hàm, vọng(2) ngôi
thứ, ấy là vẻ vang, cổ kim khánh, ngực mề đay ấy là danh giá. Một người như
thế, trăm người đều như thế, đời trước như thế mà đời sau cũng như thế!
(1) cũng tức là sự nghiệp.
(2) nộp tiền hay lễ vật cho làng
để có ngôi thứ.
Thiết thực nhưng lại phù phiếm
(Đào Duy Anh, Việt Nam
văn hóa sử cương, năm 1938)
Về tính chất tinh thần thì người
Việt Nam
đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường.
Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực
giác hơn luận lý(1). Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương
phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo(2) và hình thức hơn là tư tưởng hoạt
động. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hoà hoãn bớt, cho nên dân tộc
Việt Nam
ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực.
Tính khí cũng hơi nông nổi, không
bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh và
thích chơi cờ bạc. Não sáng tác(3) thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng, dung
hoà thì rất tài. Người Việt Nam
lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo.
(1) tự nhiên cảm thấy hơn là do
suy luận mà biết.
(2) những gì đã quá quen.
(3) nói theo cách nói hiện thời,
tức “sức sáng tạo” nói chung.
Hay tự ái và hiếu danh
(Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Người Việt rất hay tự ái. Không
mấy khi họ thú thật nỗi cực nhọc từng phải chịu. Nhưng tính tự ái thường đi đôi
với tính khoe khoang. Họ dễ kiêu căng. Ở nông thôn vấn đề thể diện có một tầm
quan trọng xã hội hàng đầu. Người nông dân rất thích nổi bật trước mắt kẻ khác
và thích nên danh nên giá. Để chiếm được một vị trí tốt giữa những người trong
cùng cộng đồng, nói chung là để thỏa mãn tính hiếu danh, họ chẳng lùi bước
trước một điều gì. Họ sẵn sàng nhịn hẳn thịt cá và các món ăn ngon lành trong
cả năm, hay mặc những bộ quần áo vá chằng vá đụp, chỉ cốt để có tiền tổ chức
những bữa khao vọng linh đình nhân được thụ phong một loại bằng sắc nào đó.
Suy đồi, Nghi ngờ – Hại nhau, Cách chống tiêu cực
Sự suy đồi toàn diện
(Phan Chu Trinh, Thư gửi Chính phủ Pháp, năm 1905)
Trong khoảng vài mươi năm nay,
các bậc đại thần ăn dầm nằm dìa ở chốn triều đình, chỉ biết chiếu lệ cho xong
việc, quan lại ở các tỉnh thì chỉ lo cho vững thần thế mà hà hiếp bóp nặn ở
chốn hương thôn, đám sĩ phu thì ganh nhau vào con đường luồn cúi hót nịnh,
không biết liêm sỉ là gì, bọn cùng dân bị nặn bóp mãi mà máu mủ ngày một khô,
không còn đường sinh kế nữa. Đến bây giờ thì thế sự hư hỏng, nhân dân lìa tan,
phong tục suy đồi, lễ nghĩa bạt hoại, một khu đất bốn mươi vạn dặm vuông, một
dân tộc hơn hai mươi triệu người lại sắp ở vào cái địa vị bán khai mà quay về
cái địa vị dã man.
(… ) Nước Nam đã lâu nay
học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ, không có kiến thức…
Trong một làng một ấp cũng cấu xé lẫn nhau, cùng nòi cùng giống vẫn coi nhau
như thù hằn, có dẫu ai có muốn lo toan việc lớn, chưa kể rằng không có chỗ mà
nương thân, không có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu, giá phỏng
Chính phủ(1) cho mượn trăm nghìn khẩu súng, cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm
hỏi đến, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng qua vài năm nếu không báo thù lẫn
nhau thì cũng tranh giành địa vị với nhau, nếu không cướp đoạt tiền tài thì
cũng giành giật tướcvị, tự chém giết nhau đến chết hết mới thôi, quyết không
thể sống nổi trong thế giới này, lại còn chống cự ai được nữa.
(1) đây là Chính phủ thực dân
Pháp
Hay nghi ngờ và làm hại nhau
trong công việc (Phan Bội Châu, Việt Nam quốc sử khảo, năm 1908)
Người ChâuÂu, người Nhật Bản làm
việc gì cũng hợp đoàn mà làm. Tôi thường thấy người Nhật Bản lúc bản tính công
việc quan trọng họ tin cậy nhau hơn ruột thịt. Còn như nước ta thì không phải
không muốn làm nên việc, nhưng cùng làm việc thì nghi ngờ nhau, không phải
không muốn thành công, nhưng cùng lập công(1) thì ghét bỏ nhau. Nếu chịu nghĩ
kỹ thì tại sao ta lại không biết dằn lòng mà theo nhau, không biết đem lòng
thành thật mà đối đãi với nhau, lại cứ nghi ngờ ghét bỏ nhau, thật là ngu quá
không thể hiểu được.
(1) ngày nay lập công có nghĩa
lập được chiến công chiến tích, hồi đầu thế kỷ XX được hiểu đơn giản là làm mót
công việc nào đó…
Cách chống đối tiêu cực
(Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)
Người Việt ít khi chịu chết vì
tín ngưỡng hay vì một vĩ nhân nào đó đã chủ trương trái quyền lợi của họ. Gặp
lúc phải dồn vào thế yếu, họ chống lại ngay bằng phương pháp tiêu cực: chỉ
trích và châm chọc.
Luôn luôn bị áp bức về kinh tế và
chính trị, cuộc sinh hoạt tinh thần thường lẩn cả vào trong tâm tưởng nên sức
phản ứng của tình cảm và tư tưởng không mau lẹ. Tính ưa hư danh là một tật phổ
thông của những người hằng cố gắng tìm vượt lên trên địa vị hiện tại của mình.
Tật cờ bạc, do cuộc sống chật hẹp gây nên, cũng là một tật phổ thông khác.
Quan lớn như hạ lưu, Ảo tưởng thoái hóa, trì trệ bất lực
Quan cao chức lớn cũng sống như
kẻ hạ lưu (Tản Đà, Đông Pháp thời báo, năm 1927)
Nghĩ như những người quan cao
chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mày đay kim khánh mà gian tham xiểm
nịnh, bất nghĩa vô lương hút máu hút mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, như thế
có phải là hạng người hạ lưu không, tưởng công chúng cũng đều công nhận.
Lại nghĩ như những người tây học
nho học, học rộng tài cao duyệt lịch giang hồ, giao du quyền quý mà quỷ quyệt
giả trá, bôi nhọ ra hề, lấy văn học(1) gạt xã hội để mua cái hư danh, phụ xã
hội thân người ngoài(2) để kiếm bề tư lợi, như thế có phải là hạ lưu không,
tưởng công chúng cũng đều công nhận.
(1) văn học ở đây tức là học vấn
nói chung.
(2) người ngoài: chỉ người Pháp
cũng như người Tàu là các thế lực lúc ấy đang có nhiều ảnh hưởng.
Từ ảo tưởng tới thoái hóa (Phan
Khôi, Báo Thần chung, năm 1929)
Mấy trăm năm nay, thuyết minh đức
tân dân(1) làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong thời đại khoa cử thịnh
hành. Buổi còn đang đi học thì người nào cũng nhằm vào hai chữ tân dân đó mà ôm
những hy vọng hão huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau sẽ làm ông nọ bà kia, sẽ
kinh bang tế thế, rồi mình sẽ thượng trí quan, hạ trạch dân, làm nên công
nghiệp(2) ghi vào thanh sử(3) đến đời đời, không ngờ thi không đậu hay đậu mà
không làm ra trò chi, thì trở nên thất vọng, thiếu điều ngã ngửa người ra, tay
chân xuôi lơ và bủn rủn.
Còn người khác đắc thời, thi đậu
ra làm quan thì lại ỉ rằng bấy lâu mình đã có cái công phu minh đức, nghĩa là
mình đã học giỏi rồi, thì bây giờ cứ việc thôi sở học ư sở hành, chớ có lo chi.
Bởi vậy nên có những ông thượng thư bộ hộ mà làm chẳng chạy bốn phép toán,
thượng thư bộ binh mà cả đời chẳng biết đến cái lưng con ngựa ra sao cái cò
khẩu súng là gì. Mà rồi ông quan nào cũng như thượng đế cả, nghĩa là toàn trí,
toàn năng(!).
(1) trích từ câu đầu tiên của
sách Đại học, có nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn đổi mới.
(2) cũng tức là sự nghiệp.
(3) thanh sét thời cổ ở Trung
Quốc dùng thẻ tre để chép sử, nên lịch sử thường được gọi là thanh sử.
Trì trệ và bất lực (Lương
Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)
Bị ý thức hệ nho giáo bảo thủ
lung lạc, bị nguỵ thuyết của bọn Tống nho đưa lạc nẻo, bị chế độ thi cử chi
phối, đẳng cấp nho sĩ Việt Nam không còn một chút hoạt lực(1) nào, không còn
được một tính cách cấp tiến nào nữa. Bởi vậy họ đã chống tiến hoá chống cải
cách. Phụ hoạ với triều đình, họ đã lấy cái học bã giả(2) của Tống nho dựng một
bức trường thành ngăn các trào lưu triết học khác không cho tràn tới địa hạt
tri thức do họ giữ đặc quyền.
…Thiếu độc lập về tư tưởng, hoàn
toàn phục tùng cổ nhân Trung Hoa về cả mặt tình cảm, quá câu nệ về hình thức
thơ Tàu, đẳng cấp Nho sĩ Vệt Nam
chỉ sản xuất ra được những lối thơ nghèo nàn. Nhiều tập thơ mài giũa công phu
nhưng không chút sinh khí.
Qua ngay hình thức của thơ, ta
cũng thấy rõ tinh thần bảo thủ của đẳng cấp Nho sĩ và sự bất lực của đẳng cấp
này trong mọi công cuộc sáng tạo xã hội có tính chất cấp tiến.
(1) sức sống.
(2) thường nói bã chả, với nghĩa
cái phần dư thừa sau khi lấy hết tính chất và nát ngấu nhão nhoẹt.
Học dở, dốt thông, vội vã bắt chước
Dễ học cái dở hơn cái hay
(Lương Dũ Thúc, Nông cổ mín đàm, 1904)
Người bổn quốc chúng ta lúc này
cũng đã có nhiều người thành thị lịch lãm về sự dinh dãy (1), cách ở ăn sạch
sẽ, về lệ luật phép tắc thông thạo nhiều; tôi chỉ không hiểu cho rõ làm sao mà
thông thái mau hết mức về việc xa xỉ, về lý tự bạo (2), mà không thông thái về
cách tính toán, về phép thương cổ (3); không có thấy bày ra hãng buôn nào cho
lớn làm nghề nào cho to; vụ lợi (4) thì không làm, còn vụ hại thì thích lắm.
Trong năm mười năm tới nữa mà cứ không buôn lớn và không học nghề chi cho giới,
thì kẻ nghèo khó còn thặng (5) trên số ngàn nữa.
(1) chỉ lối sống sang trọng
(2) chỉ tham vọng muốn trở nên
ông kia bà nọ.
(3) buôn bán.
(4) việc sinh lợi
(5) dư ra
Xấu làm tốt dốt làm thông
(Ngô Đức Kế, tạp chí Hữu Thanh, 1923)
Chúng ta thừa thụ cái cơ nghiệp
của tiền nhân, sinh nở phồn thực ở đất nước này đã mấy nghìn năm đến nay lại gặp
lúc ngọn triều tiến hoá tràn khắp mọi nơi, thế mà không làm sao bước tới theo
người. Mà chỉ mê mẩn tối tăm, ngu hèn dốt nát đói nghèo khốn khổ, không dám ló
đầu ra với mọi người. Nhất ghét là xấu làm tốt dốt làm thông, mượn cái văn minh
của người mà trang sức bề ngoài, kỳ thực trăm việc chẳng ra gì, mà nhân cách
một ngày một hư, phong tục một ngày một nát; ngọc vàng bề mặt, thối nát bề
trong, văn minh chẳng thấy đâu mà càng ngày càng thêm man rợ.
Nghĩ thấy Tổ quốc mình như thế,
thôi thì không có việc mà bàn không có chuyện mà chép, mà cũng không bàn làm gì
không chép làm gì.
Bắt chước vội vã thêm gây hại
(Trần Trọng Kim, Nho giáo, 1930)
Tính bất chước vốn là tính tự
nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng thế cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh
thần tốt rồi chỉ bắt chước lấy những điều có bổ ích thêm cho tinh thần ấy thì
thật là hay lắm. Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần của mình hư hỏng đi, mà lại
mong bắt chước sự hành động của người ta thì sự bắt chước ấy lại làm cho mình
dở hơn nữa. Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được cái hình hài bề ngoài mà
thôi còn cái tinh thần ở trong, phi (1) lâu ngày nhiễm (2) lấy được mà hóa (3)
đi, thì khó lòng mà bắt chước được. Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước chỉ
là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình. Có lắm người vọng
tưởng (4) rằng mình cố bắt chước được người ngoài là mình làm điều có ích cho
sự tiền hóa của nòi giống. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng quá lại thành
cái độc gây ra các thứ bệnh cho xã hội. Mà sự lầm lỗi ấy chỉ một ngày một thêm
ra chứ không bớt đi được.
Gánh nặng đông dân, lỗi giáo dục, kiêu ngạo hão huyền
Gánh nặng tăng theo dân số
(Nguyễn Văn Huyên, Vấn đề nông dân VN ở Bắc Kỳ năm 1939)
Tính thiếu lo xa, sự đam mê vô độ
cờ bạc và lòng tin ngây thơ vào sự cứu giúp của may rủi và cúng lễ, những sự
kình địch giai cấp nẩy sinh từ những phân biệt giả tạo, đầu óc thích kiện cáo
làm cho hai kẻ láng giềng chống lại nhau vì mót mảnh đất cỏn con hoặc vì một
phần đồ cúng chia không đều, các vụ tranh chấp liên miên vì đất công, sự thụ
động trước những yêu sách quá đáng của bọn cho vay… đó là những nhân tố làm
trầm trọng thêm tình trạng khốn khổ của những gia đình làm ruộng.
Những hậu quả này – nảy sinh từ
truyền thống – ngày xưa còn chịu đựng được nhờ mật độ người ổn định, nay trở thành
một gánh nặng cứ mỗi năm một nặng thêm, do dân số tăng lên nhanh chóng.
Trăm sự đều do lỗi ở giáo dục
(Phan Khôi, Trung Lập, Sài Gòn, năm 1930)
Xứ ta lâu nay việc giáo dục rất
bơ thờ(1). Những trường học dạy cho biết ba cái chữ không đủ gọi là giáo dục
được. Vì cái cớ không có giáo dục đứng đắn đó mà người ta không biết trọng danh
dự không biết chuộng khí tiết, không biết giữ nhân cách mình cho cao, đã vậy
thì cái lòng ham danh lợi nổi lên mà cai trị cả con người chúng ta, tùy nó xui
giục đi đâu mình đi đó, ấy là sự mà chúng ta không thể chối được. Coi kia rất
đỗi người(2) học thức tạo thành(3) mà còn không khỏi bị nhử cái mo tài lợi,
phương chi là kẻ khác!
Trong xã hội hay có thói ngó mặt
nhau. Một người làm việc xấu, nhiều người khác thấy mà phân bì: sức như ông ấy
đó mà còn làm bậy, huống chi mình – rồi thì tập nhau mà làm quen chẳng ai lấy
làm chướng tai gai mắt hết.
Nghe những người đứng lên nói vầy
nói khác chế báng một ông nào đó ta tự hỏi nếu đem thay người nói vào cái địa
vị ông ấy thì sao? Không dám vội tin rằng người thế cho ông ấy sẽ hơn được, vì
người ấy vẫn thở chung một cái không khí với đám quần chúng này.
Chúng ta trách một người vì mấy
trăm đồng bạc mà bán mình, song có ai chắc đến lượt mình không bán. Sự dễ thấy
nhất là trong quần chúng An Nam luôn luôn có kẻ bán cái ý kiến của mình, bán
cái quyền lợi của mình.
(1) vô ý, không cẩn thận. (2) lắm
người. (3) đã tới trình độ thành thục.
Kiêu ngạo hão huyền
(Nguyễn Đỗ Mục, Gõ đầu trẻ, Đông Dương Tạp chí, năm 1914)
Kiêu ngạo lộ ra ngoài mặt là
những kẻ làm bộ làm tịch, ta đãy kẻ giờ(1) khinh người bằng nửa con mắt. Lại có
thứ kiêu ngạo kín ở trong bụng, nghe điều trái tai không cãi, thấy điều chướng
mắt không chê, chỉ nói mát một câu hay cười nhạt một tiếng. Có kẻ bụng dạ nhỏ
nhen thì sinh ra kiêu ngạo, hơi một tí đã có tính hợm. Vậy nên đấng nghiêng tin
lệch đất không kiêu ngạo bằng những kẻ đội lốt sư tử, trên rừng bạc bể không
kiêu ngạo bằng những kẻ mầu mỡ riêu cua.
Có kẻ tư tưởng sai lầm thì sinh
ra kiêu ngạo, ăn tàn phá hại lại tự cho là sang trọng vào nhòng, lừa dưới dối
trên lại tự cho là khôn ngoan chẻ vỏ.
Kiêu ngạo lại thường là một người
ngu, ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vụng, vịt lội dưới ao chê sấm là nhỏ.
Kiêu ngạo không chỉ là cái cớ
riêng của đám người không có giáo dục mà còn tại tập tục và trình độ cả đám
đông xã hội. Còn người thì thào những canh thua canh được thì con bạc mới sĩ
diện đổ hào, cong người bình phẩm những cỗ to, cỗ nhỏ thì nhà đám mới lên câu
thịnh soạn, còn người ước ao những tấm lòng tróc hổ thì thầy địa lý mới lên mặt
chỉnh tôn, còn người mê mẩn những tính quỷ hồn ma thì phù thủy mới rung đùi đắc
pháp.
Tốt lẫn xấu, nặng về gia tộc, học đòi quên chuyện lớn, buôn không thành
nghề
Cái tốt lẫn với cái xấu
(Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, năm 1925)
Về đàng trí tuệ và tính tình,
người Việt Nam
có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu
khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu lại có tính hiếu học, trọng sự học
thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức.
Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt,
cũng có khi qủy quyệt và hay bài bác nhạo chế. Thường nhút nhát hay khiếp sợ và
muốn sự hòa bình, nhưng đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.
Tâm địa nông nổi, hay làm liều,
không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu(1) danh vọng,
thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỷ, sùng(2) sự lễ bái nhưng mà vẫn
không nhiệt tín(3) tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng
nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.
Tinh thần gia tộc quá nặng (Vũ
Văn Hiền, Những nhận xét nhỏ về dân quê Bắc Kỳ, Thanh Nghị, năm 1944)
Ta có thể thấy vì một mối tư thù,
một viên lý trưởng, phó lý hay trương tuần bắt trói trái phép một người họ khác
đã trái lệ làng vì một việc cỏn con, nhưng ta không thể thấy những viên chức
dịch ấy lập biên bản để đưa ra đình hay giải lên quan một ông chú một người anh
em họ bên nội hay bên ngoại, dẫu người đó đã phạm vào tội do hình luật trừng
trị.
Cái tinh thần đại gia tộc ở xứ
này đã diệt mất hẳn tinh thần công dân.Tình họ hàng ở thôn quê đã làm cho tê
liệt hẳn bộ máy cai trị của làng vốn tự nó đã không được khỏe gì. Nhờ có sức
mạnh thói quen mà làng Việt Nam
còn giữ được những cổ lệ và cái đời sống thụ động của mình. Nhưng hiện tình thì
ta không thể coi nó là một công cụ giúp vào việc tiến hóa của dân quê.
Học đòi vặt vãnh, bỏ qua nhiều
chuyện lớn (Nguyễn Bá Học, Di ngôn, do Nguyễn Bá Trắc thuật, Nam Phong,
năm 1921)
Quái lạ cho người đời, hễ ai bảo
cải lương lối nhà cửa ở, hay là cải lương cách ăn mặc bắt chước theo lối Âu
Tây, thời đua nhau như vịt, còn nhỡ ai khuyên bảo nên cải lương những thói xấu
nết hư – chốn hương thôn không nên tranh giành kiện tụng nhau, ở với bè bạn
thời phải giữ lòng trung tín – thời dẫu nói rát cổ bỏng họng cũng chỉ lờ đi,
chớ thêm nghe.
Buôn bán không thành nghề
(Lê Đức Mậu, Bàn về thương nghiệp, Hữu thanh, năm 1921)
Nói đến cuộc thương mại nước nhà
mà thêm chán. Bất quá(1) trong nước được vài nhà buôn, còn thử đi qua các phố
mà xem, chỉ những Chiệc với Chà(2) họ chiếm mất cả. Còn về buôn bán với các nước,
lại càng chẳng có ai gọi là tay đại doanh nghiệp.
Vì cớ từ xưa đến nay đàn ông ở ta
chỉ lo học hành thơ phú ngâm nga, hy vọng làm quan, chứ buôn bán cho là mạt
nghệ(3).
Hai nữa là từ xưa không có học
làm các sổ sách buôn bán, không có một trường nào dạy buôn bán như ở nước Tàu
cũng như các nước bên ÂuMỹ.
Nhẽ thứ ba, ta có buôn chỉ buôn
quanh bán quẩn với nhau, không thực thà không đồng tâm, không thạo việc, không
biết cách đối đãi với khách mua hàng.
Vả lại bây giờ nước ta không giữ
cái chủ nghĩa bế quan nữa, cửa ải đã mở rộng, nhưng mà cuộc thương mại với các
nước ở tay ai chứ có ở trong tay mình đâu mà dẫu có để cho mình cũng vị tất có
đủ tài sức mà gánh vác.Vương Trí Nhàn(Thể thao & Văn hóa)
Tình trạng dung tục ở các Lễ Hội
Phan Bội Châu trong thời gian 15
năm cuối đời, sống ở Huế (1925 – 1940), có để lại một cuốn Tạp ký. Lúc đó, ông
không còn tâm thế của người đứng ra vận động cứu nước mà thiên về cái nhìn của
một trí thức từng trải, đau lòng trước tình trạng lạc hậu của đất nước. Dưới
đây là một đoạn ông nhận xét về không khí xô bồ, nhếch nhác thường thấy phổ
biến ở lễ hội của người Việt – miếng ăn quá to, người ta chỉ nghĩ đến ăn, tranh
giành ngôi thứ cũng chỉ vì ăn:
“Tế có nghĩa là giao tế(1) vì nó
ở trong phạm vi nghi lễ. Quá lắm thì xa xỉ, không đúng mức thì bủn xỉn, đều
chưa hợp lễ.
Dân gian tế tự, nghi thức không
đủ, mà còn đùa bỡn vật mọn, cả nước như cuồng. Trước lúc chưa tế thì mồm nói
cấm kỵ mà đòi uống tìm ăn. Nghe xướng hai tiếng “lễ tất”, ai nấy đều nhao nhao.
Bưng mâm thì ăn ngay trước cửa thần, rót rượu thì uống ngay trước mặt thánh.
Đến khi dọn cỗ, trên các quan viên, dưới đến bình dân, ngồi đứng lung tung. Sau
khi uống một hai chén rồi, Giáp thì đánh Ất, Ất thì đánh Bính, chửi mắng rầm
rầm. Thậm chí chia thịt chưa đều thì đua sức đua hơi ngay ở đấy để chia tôn ti,
phân biệt thứ bậc?
Theo Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu
những mặt hạn chế và tiêu cực trong di sản truyền thống của dân tộc ta đầu thời
Nguyễn, Gia Long từng có một đạo dụ liên quan đến tình trạng tế lễ ở các làng:
“Vào đám hát xướng nhiều thì vài
mươi ngày đêm, ít thì 8 – 9 ngày. Chèo thuyền hát hỏng ăn uống xa hoa, tiêu
không tiếc tiền, rồi lại đua thuyền múa rối, đủ mọi thứ trò. Lại kén lấy trai
tơ gái trẻ đánh cờ đánh bài. Tưởng là thờ thần, thực là để thỏa lòng dục. Ngân
quỹ hết thì sinh ra đóng góp, cầm bán ruộng công?
Trong các tiểu thuyết của các nhà
văn tiền chiến, lễ hội cũng thường hiện ra như một khung cảnh ồn ào luộm thuộm
và mang nhiều tính cách tầm thường. Trong tiểu thuyết Lan và Hữu, Nhượng Tống sau
khi miêu tả cảnh đi hội chen chúc hỗn độn, lại đặc biệt than phiền về tình
trạng bẩn thỉu mất vệ sinh ở các chùa:
“Nếu tôi có tội phải người ta bắt
đi đày thì đày tôi ra Côn Đảo ba năm tôi không sợ bằng đày tôi nơi cửa chùa
Thiên Trù suốt ba tháng hội”.
Thật không khó gì nếu cần chứng
minh cho tính đúng đắn của các nhận xét trên. Báo chí thời nay cũng đã hé ra
cho thấy tình trạng tương tự. Vấn đề không phải chỉ là việc tổ chức luộm thuộm,
người xe chen lấn ùn tắc, mà còn ở cảm giác dung tục mà con người thời nay mang
tới lễ hội. Thiếu lòng thành kính tối thiểu, người ta đi chỉ cốt để cầu lợi.
Hội đền Hùng mùa Xuân năm 2002
thường được ghi nhận với việc làm ra một chiếc bánh dày 1,8 tấn, việc này về
sau đã được đưa vào sách kỷ lục Guinness. Nhưng đây là số phận của vật lễ
thiêng liêng đó. Ngày 9/3 âm lịch, trên đường chuyển đến nơi hành lễ, chiếc
bánh bị cả trăm người xúm quanh xô đẩy giằng xé. Bà con đi hội đã tự tiện thụ
lộc. Trong khoảng hơn một giờ đồng hồ, từ 10 đến 11 h30, chiếc bánh bốc hơi
hoàn toàn.
Báo Tiền phong – Số ra ngày
22/4/2002 cho biết như vậy. Theo chỗ tôi đọc được, chỉ riêng báo tiền phong,
ngoài ra không có báo nào đưa tin về sự kiện “hy hữu” này. Về sau cũng không ai
nhắc tới, coi như không có.
Nguồn: Vương
Trí Nhàn -Thể thao & Văn hóa