Trước hết, tôi phải xin lỗi cụ Tản Đà khi chọn tiêu đề bài viết này để tưởng nhớ đến một tâm hồn, một tài thơ Việt Nam núi Tản sông Đà, ngập tràn lãng mạn, ngập tràn thơ, nhiều khi hóm hỉnh sâu xa đầy gợi mở, thấm đượm yêu nước và tình người, biết bao thương xót.
“Dân hai nhăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”
Thời cụ Tản Đà, nước ta còn dưới ách nô lệ thực dân Pháp không có công dân mà chỉ có “dân đen” như Nguyễn Trãi nói, lại lo không biết “bức dư đồ rách ai bồi” nên Tản Đà mới mong mỏi trong số 25 triệu đồng bào, ai là người có chí lớn, đủ tài lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập cho đất nước. Cụ xót thương nước có bốn ngàn năm lịch sử mà dân vẫn còn trong vòng phong kiến tối tăm, chưa được khai trí về kiến thức văn minh của nền tự do dân chủ, nên so với trình độ dân trí ở các nước thì vẫn như là đứa trẻ nít.
Trên mạng xã hội, nhiều bài viết phản ánh Nghị trường Quốc hội mới diễn ra nhiều câu nói ấn tượng nổi tiếng và kết quả bấm nút cuối cùng về Hiến pháp và Luật đất đai sửa đổi như dấu chấm than về vận nước! Chẳng cần chờ đến hậu thế mà ngay thế hệ ngày nay cũng đủ trí tuệ, để soi xét, đánh giá. Những người tỉnh táo không thất vọng vì có kỳ vọng đâu mà thất vọng!
Người ta nhận xét, Quốc hội Việt Nam như sân khấu, nhiều diễn viên không vượt qua được chính mình. Lúc này, lại nhớ đến mấy câu thơ từ thời sinh viên (thập niên 60) khi đi tham gia biểu diễn văn nghệ ở khoa:
“Đóng kịch phải hóa trang
Tô đỏ đôi môi tô đen đôi mắt
Bắt đêm đen thức dạy làm ngày
Cười lúc đau nước mắt nước vui
Sân khấu và cuộc đời
Cánh gà là khoảng cách”
Nhà viết kịch nổi tiếng đi trước thời đại từ thập niên 80, Lưu Quang Vũ để lại nhiều dấu ấn cũng một phần nhờ dàn diễn viên giỏi tay nghề và đầy bản lĩnh “thổi hồn” hàng chục vở diễn đi vào lòng người như: Tôi và chúng ta; Hồn Trương Ba da hàng thit; Ông không phải là bố tôi; Mùa hạ cuối cùng vv… Trong vở kịch “Lời thề thứ 9” tác giả Lưu Quang Vũ để cho nhân vật anh lính Đôn sứt tiến đến đứng trước mặt khán giả dõng dạc, khảng khái tuyên bố trong tiếng vỗ tay vang dội của người xem “Nhân dân ta rất anh hùng nhưng thật ra hèn lắm”.
Câu nói của người lính trên kịch trường Việt Nam đã 30 năm, lại làm chúng ta nhớ đến Shakespeare nhà viết kịch nổi tiếng trên thế giới người Anh ở thế kỷ 16 (thời kỳ phục hưng) đã để cho nhân vật Hamlet có câu nói bất hủ cho đến tận ngày nay ”To be or not to be” có nghĩa là “tồn tại hay không tồn tại”.
Nhìn lại sự phát triển của đất nước, ta hãy lấy Đại Hàn Dân Quốc làm so sánh. Sau chiến tranh thế giới, Hàn Quốc nghèo nàn, lệ thuộc và độc tài, không được tôn trọng cho lắm nên gọi là Nam Triều Tiên – như chế độ Sài gòn cùng thời, thậm chí nghèo hơn Hòn Ngọc Viễn Đông. Người độc tài khét tiếng bị ghét bỏ và bị ám sát lần lượt cả vợ trước, chồng sau là Tổng thống Pak Chung-hee (tại vị 1963-1979). Ông ta từng ra lịnh đàn áp, bắn chết hơn 3.000 sinh viên biểu tình ở Quang Du và bắt kết án tử hình lãnh tụ đối lập Kim Dae-jung (sau này làm Tổng thống do dân bầu)..
Tội ác của Pak Chung-hee là độc tài, thảm sát sinh viên nhưng có công lớn đưa kinh tế đất nước hóa Rồng nhờ động lực là các Chebol và xác lập nền pháp trị làm nền tảng cho dân chủ đa nguyên đa đảng – một chỉ dấu của chế độ chính trị văn minh bền vững. Một đất nước còn tệ hơn Nam Việt Nam cùng thời, vậy mà nay kinh tế Hàn Quốc đứng hạng 11 trên thế giới, cạnh tranh qua mặt Nhật Bản về thị trường, thị phần ô tô, điện tử và một phần công nghệ đóng tàu thật đáng khâm phục.
Hay hơn nữa là con gái nhà độc tài Pak Chung-hee, nay là Tổng thống Pak Geum-hye (2/2013) lại thắng áp đảo trong cuộc bỏ phiếu dân chủ cạnh tranh giữa các đảng phái. Ánh hào quang hiện tại soi sáng lịch sử nghèo nàn, độc tài, đen tối để lộ ra một Đại Hàn Dân Quốc như ta thấy làm thế giới phải ngả mũ thán phục.
Còn Việt Nam ta lịch sử oai hùng trước chiến tranh thế giới, sau 1975 là” trái tim và lương tâm thời đại”. Vậy mà ta, nay lại hạng trên dưới 100 trong số hơn 190 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xin vay, bám bầu vú viện trợ ODA sử dụng không hiệu quả, chỉ số ICOR cao ngất ngưởng nhất khu vực, để lại khoản nợ khổng lồ cho con cháu, trong khi giáo dục xuống cấp, tham nhũng tràn lan, lòng người ly tán, có đau và nhục không chứ?!. Vậy thì không ai lớn và trẻ con mãi (chứ không phải trẻ mãi – thanh xuân – không già) là đúng quá rồi!
Bây giờ dân 90 triệu rồi, so ra dân trí cao hơn thời xưa nhưng chí khí lại thụt lùi, quan trí tụt hậu so với thế hệ vàng Hồ Chí Minh, không chịu làm theo lời dạy của Người: “Dân chủ là để cho người dân được mở miệng”.
Chỉ riêng chuyện đất đai, nhiều người đã nói mãi, nói rất đúng về khái niệm mơ hồ sở hữu toàn dân chỉ là kẽ hở cho nhóm lợi ích, là nguyên nhân chủ yếu khiếu kiện gây bất ổn xã hội bấy lâu nay nhưng rồi đa số đại biểu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước vẫn phải bấm nút theo hướng đã được “chỉ tay”! Trong phạm trù sở hữu được nêu ra, nên chăng ta cứ nôm na hóa vấn đề như câu cửa miệng, dân giã thường đặt ra để cân nhắc, đắn đo, suy xét: “Ai nắm đằng chuôi”. Và, thế là rõ ngay cái thế: Ai sẽ “đứt tay” khi cái “chuôi” ngọ nguậy?!
Trong lịch sử, chế độ quân chủ coi đất là của Thiên tử. Chế độ ấy gần như không lúc nào yên được vì người nông dân (nông nô) không ngày nào được ổn định trên mảnh đất mà mình canh tác (vì chủ đất thu hồi – lấy lại lúc nào không biết). Và chế độ quân chủ độc tài vĩnh viễn bị xóa bỏ. Chế độ tư bản, khởi đầu từ Hoàng đế Napoleon: Nông dân có quyền làm chủ đất. Ngày nay, nhân dân Pháp vẫn còn thỉnh thoảng hô: “Hoàng đế muôn năm!”. Vậy là sao? Chế độ công hữu đất đai dưới các chế độ gọi là Xã hội Chủ nghĩa chưa thấy ở đâu mà yên. Hơn chục nước XHCN đã không tồn tại, chỉ duy nhất còn vài nước “lai lai” kinh tế thị trường mà sở hữu đất đai thì là của Nhà nước (còn công là của cá nhân) như Trung Quốc và Việt Nam ta.
Người ta thường nói đất nước suy thoái cần phải chấn hưng. Từ chấn hưng phong phú, giàu ý nghĩa. Trong “chấn hưng”, có cải cách, có đổi mới, có khôi phục, có bảo tồn, có phát triển. Chấn hưng đấ́t nước là chấn hưng những gì? Thế giới thường nói: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Nước ta đã bổ sung: Mở mang văn hoá, chấn hưng giáo dục, và phát triển con người.
Tiếc thay, cũng như cảm thán của cụ Tản Đà năm xưa, ngày nay 90 triệu dân muốn chấn hưng đất nước nhưng lĩnh vực quan trọng quyết định là chế độ xã hội, thể chế chính trị, và chống tham nhũng thì ngay cả các đại biểu Quốc hội cũng chưa được nói, được viết và được làm có hiệu quả như cần có.
Lâu rồi, đã có lần người viết bài này đưa ra nhận xét, nhìn ra thế giới, chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm thành công của các con Rồng Châu Á là nhờ:
Thứ nhất, có một người đứng đầu là bậc hiền tài giầu tài năng đức độ, không bị lực cản kìm hãm hoặc hạn chế, mà có tổ chức và cơ chế thuận lợi để phát huy hết tài năng, đức độ làm giầu, làm đẹp, giữ vững và mở mang đất nước.
Thứ hai, cần có nguồn nhân lực gồm những cán bộ hành chính biết quản lý Nhà nước pháp quyền hiện đại có hiệu lực và hiệu quả cao. Những doanh nhân biết kinh doanh tại các doanh nghiệp công và tư đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao cho bản thân, cho doanh nghiệp và cho đất nước. Các nhà khoa học, ban đầu biết lựa chọn, tiếp thu, vận dụng tốt các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến trên thế giới, tiếp đó biết tiến lên sáng tạo thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của chính nước nhà.
Thứ ba, có một dân tộc với một sự thông minh và tài năng được đào tạo, bồi dưỡng bởi một nền giáo dục quốc dân hiện đại có chất lượng cao.
Ngày nay, ngẫm suy bài hoc kinh nghiệm hóa Rồng của các nước và 2 câu thơ nói trên của cụ Tản Đà chỉ biết cảm thán: ... "Không may thay cho nước ta”!
Tô Văn Trường