Hiện nay con người đang hoang mang đến cùng cực vì đại dịch toàn cầu do virus SARS-CoV-2. Khi chúng tôi muốn chuyển những suy nghĩ này đến mọi người (tức ngày 26/5/2021) thì dịch bệnh đã hoành hành khắp nơi, thế giới đã chạm mốc 170 triệu người nhiễm, có xấp xỉ 3,5 triệu người tử vong. Những quốc gia bị quy kết là tạo điều kiện cho dịch như Ấn Độ đạt con số 27 triệu người nhiễm, nhưng những quốc gia văn minh hàng đầu như Mỹ lại đứng đầu số lượng người nhiễm gần 34 triệu người. Nhân loại không biết phải hành xử như thế nào. Sự bùng nổ thông tin thời hiện đại càng làm cho con người vô cùng khó khăn để tinh lọc thông tin, càng chịu một áp lực khủng bố tâm lý nặng nề.
Trong tâm lý con người nói chung SARS-CoV-2 là một con ác quỷ hay ác thú thu nhỏ, vừa khôn ngoan, trí trá, xảo quyệt, vừa hung hiểm, tàn độc có thể xâm nhập và tiêu diệt bản thân bất cứ lúc nào. Bên cạnh đó, ai cũng nghĩ rằng họ có thể mạng vong vì ngẫu nhiên hít phải hay đưa vào niêm mạc, qua tiếp xúc da một vài con virus. Và đa số còn nghi ngờ rằng đại dịch lần này do một, hay một nhóm người nào đó ăn thịt động vật hoang dã và bị lây nhiễm virus dần dần lan tỏa ra cộng đồng thành đại dịch. Nếu nhìn nhận vấn đề như trên thì con người không phải chịu trách nhiệm gì, vì mọi việc đều ngẫu nhiên.
Nhưng theo các bậc Đại Giác xưa và các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới thì những thảm họa trong cuộc sống không phải chỉ là một sự ngẫu nhiên, mà tất cả đều tuân theo một quy luật nhân quả, mà chính Anhxtanh (Albert Einstein) đã khẳng định khái quát rằng: “Đấng hóa công không gieo xúc xắc”. Cũng vậy, chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn khác về vấn đề virus đang khảo sát từ những định luật mà công lý thiên nhiên, từ cả cộng nghiệp và biệt nghiệp của con người, hay nói cách khác là từ quy luật nhân quả mà các bậc Đại Giác đã chỉ ra và các nhà khoa học lớn đều đồng thuận.
Cộng nghiệp: Tất nhiên con người cũng nhận thức được về hậu quả tàn hại thiên nhiên quá nặng nề bởi lòng tham không cùng của chính mình, sinh vật đang thống trị hành tinh này. Từ biển cả, núi rừng, sông ngòi, kênh rạch nay đang kêu cứu; từ những việc ngăn sông, ngăn đập khai thác cạn kiện tài nguyên và nguồn nước; từ những quả bom điện hạt nhân, quả bom nước thủy điện treo trên đầu người; rồi cả một bầu không khí ô nhiễm trầm trọng. Cả một hệ động thực vật làm thức ăn cho con người nhiễm đầy độc tố, rồi dư lượng của hóa chất độc hại dùng trong mọi lĩnh vực phục vụ của đời sống. Chưa kể sự ô nhiễm về đạo đức, lòng tham không cùng, hận thù chất chứa, sự độc ác hung hiểm của con người đã tạo ra cả một trường năng lượng vô cùng xấu.
Bà mẹ thiên nhiên đang phải quằn quại đớn đau, vì tất cả những điều mà mình đã phải tổn bao công sức làm ra hàng triệu triệu năm đã bị tàn hoại trong một thời gian quá ngắn. Những thiên tai, địch họa, dịch bệnh… tất yếu phải xảy ra, cho nên có thể xem dịch bệnh lần này là cộng nghiệp của con người, là kết quả tại nhân, do cái nhân mà cộng đồng đã gieo và tất nhiên trên phương diện đại thể những tai ương ấy hẳn không phải là sự ngẫu nhiên.
Biệt nghiệp: Từ nhìn nhận về quy luật nhân quả, ngoài cộng nghiệp đã đề cập trên, chúng ta có thể nhìn nhận thêm một số vấn đề về biệt nghiệp qua những nghịch lý của virus SARS-CoV-2. Khi quan sát về sự tương tác giữa virus và cơ thể con người mà không thể nào giải thích nếu không đứng trên quan điểm nghiệp lực của Phật giáo.
Chúng tôi xin trình bày những nghịch lý trong những nghiên cứu về loại virus này, về cấu trúc phân tử bệnh học, vi sinh học, miễn dịch học, điều trị học… để đưa ra một cách nhìn khác với đa số, nhưng tuân theo giáo lý của bậc Đại Giác, mong đóng góp cho các đạo hữu nhìn nhận lại vấn đề, hòng bớt đi sự hoang mang và có thể yên tâm dựa vào giáo lý của các pháp để hành trì, mục đích giữ được thân và tâm bình yên hơn trước dịch bệnh.
I- Nghịch lý của sự tiến hóa
Cuộc chiến với SARS-CoV-2 đang làm rúng động lòng người càng lúc càng lạ lùng.
Một bên là loài người, sinh vật đang thống trị hành tinh sở hữu một cơ thể hoàn chỉnh diệu kỳ, với khoảng 75 ngàn tỷ tế bào hoạt động minh mẫn nhịp nhàng đến từng phân tử, đã tiến hóa hàng triệu triệu năm, hình thành một hệ thống phòng vệ tinh vi hơn bất cứ lực lượng quân sự nào trên thế giới. Và sinh vật này còn đạt đến đỉnh cao văn minh chói lòa, với những thành tựu vĩ đại tự hào chinh phục cả thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho mình, chinh phục cả vũ trụ tưởng trừng như đã cướp hết quyền năng của tạo hóa.
Một bên là Virus SARS-CoV-2, một loại vật chất chưa được xem là vật chất sống, chúng chỉ là một thể trung gian giữa chất sống và chất vô sinh, tức không có cấu tạo tế bào, không di chuyển được, không có khả năng tự sinh sản, không có quá trình trao đổi chất. Một chút nắng cũng khô héo, một chút mặn cũng tan nát, một chút axit hay bazơ cũng tiêu tùng, rất mong manh. Chúng chỉ biểu hiện được một số tính chất cơ bản của sự sống, khi và chỉ khi lọt được vào bên trong niêm mạc hô hấp của vật chủ có những cấu trúc vật chất phù hợp với nó.
So sánh lực lượng tưởng chẳng cần bàn, ấy vậy mà càng lúc con người ngày càng trở lên nhỏ bé yếu ớt đến thảm hại, sợ hãi, âu lo, kinh khiếp, hoang mang gần như chỉ biết chờ đợi, chờ đợi sự vận hành của trời đất, thời khí đổi thay hay một sự ban phát của một đấng quyền năng nào đó để cầu mong virus tự ra đi.
Con người đã bắt đầu lờ mờ nhận ra có gì đó sai sai ở đây, vô cùng nhiều những câu hỏi tại sao mà thật khó tìm ra câu tại vì để trả lời. Phải chăng virus chỉ là biểu hiện vật chất của bệnh, còn bệnh là một điều gì đó khác hơn. Con người không thể tiêu diệt được nó vì một năng lực nào đó đang điều hành tác động của nó với cơ thể, không chấp nhận tha lực giải quyết. Về mặt đại thể, nhân loại phải chịu một hậu quả tương đương với sự tàn phá tự nhiên mà lòng tham khôn cùng. Về cơ thể người bệnh cũng phải trả đầy đủ những món nợ lỡ vay, tùy từng tính chất, số lượng của nợ mà người bệnh sẽ diễn tiến nặng nhẹ như thế nào, đến công đoạn nào, có thể chỉ là nhiễm virus hay đến dương tính với virus hay phát một bệnh cúm điển hình như sốt cao, đau đầu, đau nhức mình mẩy, viêm long đường hô hấp trên….. hoặc đến viêm họng hay có thể viêm phế quản, viêm phổi, có suy hô hấp cấp rồi tử vong…. 80 % tự khỏi, 14% có biến chứng, 6% nguy cơ.
Chúng tôi nhấn mạnh đến một năng lực nào đó, người có học Phật sẽ nhận ra ngay năng lực đó chính là nghiệp lực, nói cách khác diễn tiến của dịch bệnh dù ở bất cứ mức độ nào cũng đang tuân theo một quy luật nhân quả.
II- Nghịch lý về sự phát triển của virus
Bản chất của virus, khoa học đưa ra khái niệm hạt chứ không phải là con như cách gọi thông tục của người Việt: con virus, thói quen gọi tên như vậy càng làm người Việt mình hình dung sai, tưởng tượng SARS-CoV-2 là một con ác quỷ hay ác thú thu nhỏ, vừa khôn ngoan, trí trá, xảo quyệt, vừa hung hiểm tàn độc, có thể xâm nhập và tiêu diệt bản thân bất cứ lúc nào. Thực ra virus này chỉ là một đại phân tử nucleic protein gồm một chuỗi đơn ARN mang mật mã di truyền và Capsit protein gai bao quanh một thể trung gian giữa các chất sống và vô sinh, không có cấu tạo tế bào, không di chuyển được, không có khả năng tự sinh sản, không có quá trình trao đổi chất. Vật chất di chuyển của chúng chỉ là một chuỗi đơn ARN gồm xấp xỉ 30,000 nucleotit tương đương với khoảng 1/200,000 ở tế bào người. Chuỗi ADN ở tế bào người khoảng 3 tỷ cặp chỉ khác virus một loại timin hay uraxin. Chỉ mô tả từng ấy cũng đủ cho chúng ta thấy rằng bản thân virus không thể có trí khôn hay trí thông minh như con người đang nghĩ về nó, thậm chí những hoạt động cấp thấp của một vật chất sống cũng không hề có.
Phần này chúng tôi đặt lại hai vấn đề:
1). Về sự nhân lên của virus: Xét về vật chất di truyền chuỗi ARN số lượng chuỗi nucleotit chỉ bằng 1/200,000 của người, 3,000 so với 3 tỷ kép chỉ thay timin bằng uraxin. Nếu mỗi lần nhân lên của virus chỉ tận dụng hiệu quả bằng 1/10 vật chất di truyền của tế bào người thì cũng chỉ vài lần nhân lên thì cả hệ thống hô hấp của con người đều bị hủy hoại. Thế nhưng thực tế không phải như vậy, dù bị nhiễm virus thì cũng có thể 95% người bệnh lành bệnh tự nhiên. Điều này lại gợi ý cho một năng lực nào đó thuộc về cơ thể người bệnh đang điều hòa tương tác giữa virus với cơ thể con người để dẫn đến một tỉ lệ lành bệnh rất lớn, hơn 80% lành bệnh, 14% có triệu chứng bệnh cúm nhưng vẫn lành.
2). Cấu trúc của SARS-CoV-2 đã được giải mã đến từng nucleotit và các loại protein đặc thù của nó, cho thấy tác nhân gây bệnh hoàn tòan tương đồng đến cấp phân tử, khi có thay đổi thì sẽ thay đổi thành những biến chủng mới. Nhưng bệnh cảnh mỗi người mỗi khác, điều này gợi ý khá rõ cho một năng lực nào đó thuộc về cơ thể người bệnh, đang chi phối tất cả sự giao tranh giữa tác nhân gây bệnh vào cơ thể con người. Cũng vậy, theo nhãn quan của người học Phật thì năng lực đó chính là nghiệp và mọi thứ vẫn đang được điều phối tinh vi, cùng cực bằng quy luật nhân quả.
III- Nghịch lý trong bệnh học vi sinh
Sự nhân lên của virus là một quá trình phức tạp, trong đó axit nucleic của virus giữ vai trò chủ đạo truyền đạt các thông tin di truyền của chúng cho tế bào chủ. Virus hứng các quá trình trao đổi chất của tế bào chủ sang việc tổng hợp các hạt virus mới. Cũng như các loại virus khác, quá trình nhân lên của SARS-CoV-2 được chia thành 5 giai đoạn: Hấp phụ – Xâm nhập – Tổng hợp các thành phần cấu trúc – Lắp ráp – Giải phóng.
– Giai đoạn hấp phụ: virus hấp phụ vào bề mặt tế bào, các hạt virus gắn vào các thụ thể Resetter đặc hiệu ở mặt tế bào, biểu mô đường hô hấp do các kháng nguyên bề mặt của virus chỉ phù hợp với các tế bào này mà thôi.
– Giai đoạn xâm nhập: virus xâm nhập qua mạng tế bào qua cơ chế ẩm bào, tiếp đó vỏ Capsit của virus sẽ được erin cởi bỏ của tế bào phân hủy giải phóng axit nucleic của virus đó gọi là giai đoạn cởi áo.
– Giai đoạn tổng hợp các thành phần cấu trúc: virus truyền đạt những thông tin di truyền cho các tế bào chủ và bắt các tế bào chủ chuyển hướng sang tổng hợp các thành phần của virus. ARN axit nucleic của virus được nhân lên và 29 loại protein đặc thù của nó được tổng hợp.
– Giai đoạn lắp ráp các thành phần: mỗi chuỗi ARN là 29 loại protein đặc thù, tạo vỏ capsit được lắp ráp thành từng đơn vị và quá trình này tạo nên hàng vạn hạt virus hoàn chỉnh. Cũng có trường hợp không hoàn chỉnh nhưng xác suất không lớn như lắp ráp sai tạo ra virus không hoàn chỉnh hoặc các virus giả hoặc có những thay đổi nhỏ tạo đột biến.
– Giai đoạn giải phóng: hàng vạn hạt virus tạo thành sẽ phá vỡ mảng tế bào để ra ngoài và tiếp tục đi xâm lấn tế bào cảm thụ khác.
Quy trình trên được khoa học mô tả hết sức rõ ràng nhờ vào những phát minh khoa học rực rỡ về kỹ thuật thiết bị, về mô tả khách quan. Khoa học đã vô cùng chính xác, song bình tâm mà nhìn nhận ai cũng có thể thì rất lạ, làm sao một thứ chỉ có thể là trung gian giữa chất sống và chất vô sinh lại có thể hoàn thành một quy trình phức tạp đạt kết quả toàn mỹ đến thế. Từ tìm kiếm hấp thụ các tế bào cảm thụ, xâm nhập rồi tổng hợp các thành phần của mình thông qua sự khống chế các tế bào chủ, buộc phải chuyển hướng làm việc cho mình, rồi lắp ráp hàng tỷ đơn nguyên cấp phân tử thành hàng vạn virus không mảy may sai lầm. Nghịch lý này thật không thể giải thích!
Từ một góc độ khác nhìn nhận, một quy trình tinh tế vĩ đại như mô tả phải do chính cơ thể con người với 75 ngàn tỷ tế bào hoạt động vi diệu, do đã tiến hóa triệu triệu năm thực hiện thì mới khả dĩ thuyết phục. Trên cơ sở thành tựu quán sát của khoa học có thể nhìn từ trong ra, thay đổi chủ khách mô tả quy trình trên như sau:
Giai đoạn hấp phụ: cơ thể điều khiển những tế bào biểu mô đường hô hấp, hấp phụ những virus Corona có kháng nguyên tương ứng với resetter cảm thụ quan trên bề mặt của tế bào; Giai đoạn xâm nhập: cơ thể thông qua cơ chế ẩm bào, nuốt virus vào bên trong tế bào, tiếp đó dùng erin cởi vỏ để cởi bỏ vỏ capsit của virus và phân hủy giải phóng axit nucleic của virus đó gọi là giai đoạn cởi áo; Giai đoạn tổng hợp các thành phần cấu trúc: cơ thể đưa các thành phần của virus vào các nhà máy sản xuất bảo quản trong khắp tế bào, rồi xử dụng nguyên vật liệu của tế bào sản xuất các thành phần này ARN và 29 loại protein; Giai đoạn lắp ráp các thành phần: cơ thể dùng hàng triệu đơn nguyên kiến trúc của ARN và 29 loại protein vỏ được sản xuất mọi nơi, đem lắp ráp thành hàng vạn hạt virus hoàn chỉnh; Giai đoạn giải phóng: cơ thể dùng hàng vạn hạt virus tạo thành để phá vỡ mảng tế bào, đẩy virus đến cho các tế bào cảm thụ khác.
Nhìn nhận như trên, tức là chính cơ thể con người chủ động thực hiện cả 5 bước nhân lên của virus. Nghe thì lạ tai, song chỉ nhìn nhận quy trình nhân lên của virus như vậy mới tránh được nghịch lý đã nêu. Vấn đề còn lại, tại sao cơ thể thông minh vi diệu của con người lại đi làm một chuyện bất lợi như vậy! Thật không dễ trả lời, nhưng ở đây vấn đề chúng ta đối diện lại gợi ý khá rõ một năng lực nào đó thuộc về cơ thể người bệnh đang chi phối tất cả quá trình hấp phụ, ẩm bào, cởi vỏ, tổng hợp, lắp ráp, giải phóng các tác nhân gây bệnh. Một lần nữa, năng lực đó chính là nghiệp lực, theo nhãn quan người học Phật và cũng chỉ bằng cách nhìn ấy mới tránh được các nghịch lý nêu trên.
IV- Nghịch lý trong miễn dịch học
Sự mô tả gần đây của miễn dịch học đối với SARS-CoV-2 cho chúng ta những thước phim sinh động rõ ràng về các bước tấn công của virus thể hiện sự thông minh, khôn khéo, gian trá, hung hiểm … của virus này. Tất nhiên những thuộc tính này gắn cho một loại không phải là chất sống cũng là một nghịch lý. Xin mô tả vắn tắt:
- Virus xâm nhập vào cơ thể khéo léo lọt qua các tuyến phòng thủ không đặc hiệu: nước mắt, nước mũi, nước dãi, chất nhầy ở cổ họng và đường hô hấp.
- Săn lùng các tế bào chúng có thể chỉ huy.
- Virus sẽ chiếm đoạt tế bào sinh sản tự lây lan và tấn công các tế bào khác.
- Ngụy trang sự hiện diện của mình bằng cách chạm vào hệ thống báo động hóa học của hệ thống miễn dịch. Nhiều nhà nghiên cứu miễn dịch còn nhận định virus thử các mánh khóe khác nhau để né tránh báo động của hệ miễn dịch.
Khi hệ thống miễn dịch phát hiện, cũng là lúc virus bắt đầu cuộc chạy đua vũ trang với hệ thống miễn dịch để lan truyền và tấn công, trước khi các tế bào T hoạt động săn tìm bắt các tế bào bị nhiễm bệnh (tức có virus bên trong). Khi tế bào T tìm thấy các tế bào nhiễm virus sẽ gắn chặt và chuyển các phân tử sang tế bào nhiễm và bắt đầu tiêu diệt nó. Cùng lúc đó các protein hình chữ Y cũng giúp một tay bẻ gãy các gai virus dùng để bám vào các tế bào khỏe mạnh, tiếp đó các đại thực bào sẽ nuốt chửng các cụm virus đã chết, tuy vậy kết quả xấu cũng có thể xảy ra. Khi các tế bào T tiêu diệt các tế bào nhiễm bệnh, phổi sẽ phù nề, sưng lên vì các tế bào miễn dịch, các phân tử và dịch làm giảm thiểu sự hấp thụ oxy.
Nếu phế phẩm chiến tranh không nhiều lắm và cơ thể bệnh nhân tốt thì có thể hồi phục sau một bệnh cảnh viêm, nhưng nếu lực lượng không chênh lệch sự tàn sát hai bên lan rộng, các loại tế bào chồng chất trong phổi, gây tắc nghẽn giảm lưu lượng oxy, dẫn đến tử vong do không cung cấp được oxy. Khi cơ thể chỉ huy tế bào miễn dịch chiến đấu, sự phối hợp sai có thể xảy ra, gây tổn thương nhiều hơn dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Cơ thể phản ứng thái quá (gọi là quá mẫn) cũng gây ra những thương tổn trầm trọng, tức thay vì tổn thương do virus, chính phản ứng miễn dịch lại trở thành gánh nặng cho phổi và các cơ quan khác nữa. Trong phần này chúng ta lại thấy một nghịch lý nặng nề, khi phải quy chụp cho một thứ không phải là sự sống những thuộc tính khéo léo, mánh khóe có khả năng săn lùng, chiếm đoạt, tự lây lan, tấn công, ngụy trang chạy đua vũ trang, …
Nói chung, tất cả đều là những thuộc tính thuộc về con người đem áp đặt cho một thứ không phải là chất sống đã là nghịch lý. Mà nhìn cho đúng bản chất sự việc thì ngay cả quá trình bệnh tật cũng do cơ thể con người tạo nên, sự nguy kịch hay thậm chí cái chết cũng do cơ thể con người phát động chiến tranh gây hậu quả. Sự phối hợp sai của hệ miễn dịch hay phản ứng quá mẫn của nó gây tổn thương các tạng phủ, thảy đều do cơ thể con người thực hiện sẽ ký ở đây, sẽ càng gợi ý cho chúng ta về một năng lực nào đó thuộc về cơ thể con người chi phối toàn thể quá trình hình thành nên bệnh tật. Và cũng không thể là năng lực nào khác ngoài nghiệp lực, từ cái nhân con người lỡ gieo bằng những hành động có tác ý, sẽ chi phối dẫn dắt mọi thứ trong thế giới không nhìn thấy, đi đúng quy luật cho đến kết quả cuối cùng.
V- Nghịch lý trong di truyền phân tử
Các nhà khoa học đương đại đã giải mã hoàn toàn bộ gen của SARS-CoV-2, bộ gen trước khoảng 30,000 ký tự, các nucleotit, andele, adenin, whole, genome, sequencing và xác định bộ gen này mã hóa 29 protein và xác định được đa phần nhiệm vụ của từng protein: có loại làm nhiệm vụ cảnh giới; có loại tuyển dụng các bào quan buộc sản xuất protein cho virus; có loại ngăn cản tế bào sản xuất protein chống lại virus; có loại lại ngụy trang cho các gen của virus giúp chúng không bị tấn công; có loại dùng dọn dẹp các công xưởng bừa bộn do sản xuất vũ khí để các loại bảo vệ không phát hiện được hoạt động sản xuất vũ khí của nó; có loại giúp ARN của virus trốn khỏi các protein bảo vệ tế bào; có loại giúp thay đổi môi trường bên trong của tế bào nhiễm giúp virus dễ dàng sao chép và nhân lên hơn; lại có loại ngăn chặn các thông tin tính hiệu mà tế bào nhiễm gửi đến cho hệ miễn dịch.
Có người lại mô tả sinh động hơn nữa SARS-CoV-2 sử dụng rất nhiều protein như những tên khủng bố chiếm dụng công xưởng của tế bào; có loại làm nhiệm vụ cảnh giới; có loại bắt cóc và đe dọa con tin, yêu sách các nhà máy phải nghe lời chúng; có loại protein ngụy trang để đánh lạc hướng cảnh sát; có loại protein mở đường thoát khi chúng làm xong nhiệm vụ, v.v…
Bình tâm mà xem xét thì những mô tả và nhận định trên đều có vấn đề. Virus không được xem là chất sống thực sự, nhưng mô tả như vậy là khi đem chẻ chúng ra hàng trăm mảnh thì mỗi mảnh đều có tính chất của sự sống và hơn thế, mỗi mảnh lại có tính chất của những hoạt động thần kinh cao cấp, tất nhiên đó là một nghịch lý!
Và như vậy, chúng ta lại trở về một điều mang tính gợi ý xuyên suốt từ đầu: một năng lực nào đó từ phía cơ thể người bệnh đang thực hiện những hoạt động vô cùng phức tạp cấp di truyền phân tử, để điều hòa cuộc chiến giữa virus và cơ thể con người. Một lần nữa, người học Phật sẽ khẳng định đó là nghiệp lực, quy luật nhân quả điều phối tất cả!
VI- Nghịch lý trong điều trị
Từ năm 1915, khoa học đã phát hiện virus của vi khuẩn, 1935 tách biệt và kết tinh virus kháng thuốc lá, 1940 đã quan sát được hình dạng và thành phần cấu trúc của virus cúm nhờ vào kính hiển vi điện tử. Như vậy là hơn 100 năm từ lúc phát hiện và hơn 80 năm từ khi nhìn thấy virus. Rõ ràng dưới kính hiển vi con người vẫn không thể nào điều chế ra được dược phẩm tiêu diệt được nó, vì đó không phải là một thứ thuộc về chất sống, khi bên ngoài tế bào mà trong tế bào lại phân ra từng tế bào để tổng hợp. Điều trị bệnh cúm nói chung thì cả trăm năm nay vẫn vậy, chỉ dùng các loại thuốc nâng cao thể trạng, điều trị hỗ trợ, rồi chờ cơ thể tự hoàn thành quy trình miễn dịch, khoảng thời gian một đôi tuần bệnh tự nhiên lui, mà đa phần điều trị hay không thì kết quả cũng không khác mấy. Với SARS-CoV-2 hôm nay cũng đều là điều trị hỗ trợ, bao gồm hỗ trợ hô hấp như thở oxy, thở máy ECMO giúp giữ bệnh nhân sống sót cho đến khi tự hồi phục là nhờ chính vào cơ thể miễn dịch của cơ thể.
Với Đông y thì bao nhiêu đời nay, người xưa vẫn đối chứng lập phương và xử lý hậu quả với các loại cảm cúm, cảm lạnh đều do virus. Trên luận lý về thương hàn, tùy theo kinh nghiệm chẩn đoán bệnh đã vào đến kinh nào Lục kinh chuyển biến: Thái dương, Thiếu dương, Dương minh, Thái âm, Thiếu âm, Quyết âm…. mà có những bài thuốc phù hợp như Ma hoàng, Quế chi, Tiểu sài hồ thang… Chung quy vẫn là phù chính khu tà tự nâng cao thể trạng để tà khí tự lui như nguyên lý “Chính khí tồn nội, tà bất khả can” vậy. Với kinh nghiệm dân gian thì các loại bệnh cảm cúm, cảm lạnh lại vô cùng đơn giản chỉ cần một nồi nước lá xông của bà nông dân, hoặc nồi khoai xông hơi của người ngư dân cũng khỏi, hay những người lính trong thập niên 80 thế kỷ trước mà chúng tôi trải nghiệm, đôi khi chỉ cần vài cốc rượu với vài múi tỏi cũng khỏi. Sau này rất nhiều người trong chúng tôi, thực hành những phương pháp thiết thực không dưới vài chục lần thì càng đơn giản hơn, chỉ cần hai ba ngày là khỏi hoàn toàn. Phần này chúng ta cần nhìn nhận thêm.
Khoa học suốt 80 năm nhìn thấy virus, loài corona thì càng dễ gặp, gần đây là biến chủng SARS-CoV-2 mà không thể tiêu diệt được vì những tính năng quá dị biệt. Có vẻ như con người tất yếu phải chịu đựng một căn bệnh tự đến, tự đi một tỷ lệ nhỏ biến chứng nguy hiểm mà không thể làm gì khác. Bên cạnh đó, những bài thuốc của Đông y chỉ uống thuốc đi vào hệ tiêu hóa lại khỏi, rồi nồi lá xông, nồi khoai xông của người dân ít học hay rượu tỏi của những người lính hay biện pháp thiết thực có vẻ như không hề động chạm đến con virus đang ẩn nấp bên trong những tế bào biểu mô đường hô hấp nhưng kết quả lành bệnh lại rất phổ biến. Phần này cũng củng cố cho chúng ta một năng lực nào đó từ phía cơ thể người bệnh, đang chi phối toàn bộ quá trình bệnh tật của con người. Toàn bộ sự tương tác giữa cơ thể các loại vi sinh vật như một sự vay trả không phải ngẫu nhiên, mà bản thân khoa học không thể can thiệp để giúp con người trốn nợ được. Lần này, càng làm vững chắc thêm cho cách nhìn người học Phật, tất cả các quá trình trên đều do nghiệp lực chi phối.
Tóm lại: khảo sát virus SARS-CoV-2 từ những phương diện đã trình bày, dù là đối chiếu sự tiến hóa phát triển hay đi sâu vào bệnh học vi sinh, miễn dịch học hay khảo sát đến di truyền học hoặc chiêm nghiệm đến kết quả điều trị của nhiều phương pháp thì chúng ta đều bắt gặp những nghịch lý mà không thể giải thích được và lờ mờ nhận ra rằng một năng lực nào đó từ phía cơ thể con người, đang chi phối toàn bộ quá trình hình thành bệnh tật từ nhiễm bệnh, duy trì bệnh, đến khi khỏi bệnh. Nếu quan sát dựa trên giáo lý nhà Phật, thì năng lực mà chúng ta nói đến chính là nghiệp lực, hình thành tự sự có tác ý của con người, gồm cả tiền nghiệp, thân nghiệp, ý nghiệp, khẩu nghiệp và cộng nghiệp như trường hợp chúng ta đang xét. Bệnh vẫn là một quy luật tất yếu phải nhận lãnh hình thành từ nhiều những nhân tố xảy ra trong đời sống của con người từ việc ăn, uống, ngủ, nghỉ, vận động, hít thở, v.v…Từ các nhân tố của trời đất mà Y học cổ truyền tổng kết: phong hàn, thử thấp, táo hòa rồi khói bụi, hóa chất,v.v… Và đặc biệt quan trọng trạng thái, tình cảm, tâm lý của con người: phìền não, tham, sân, tật đố, ái dục, v.v…
Trong hầu hết các trường hợp trên, virus có thể xem là duyên để hoàn thành một quy trình nhân quả nghiệp báo trên phương diện vật chất. Nếu không có duyên này thì bệnh cũng sẽ hình thành một dạng khác, khi gặp một loại duyên khác thích hợp. Gặp virus, năng lực nghiệp đã điều khiển các tế bào hấp thụ virus rồi nuốt lấy theo cơ chế ẩm bào, rồi dùng men của mình để cởi áo cho virus, đưa tất cả các thành phần của virus vào các bào quan để tổng hợp các thành phần rồi tạo ra vạn hạt tiếp tục đẩy đi đến các tế bào khác để tiếp tục quy trình. Nhưng nghiệp lực vẫn điều khiển các hoạt động này theo chừng mực mức độ nghiệp mà con người đã tạo ra. Do vậy, tùy trường hợp có thể có kết quả khác nhau: có người thì chỉ nhiễm virus mà chẳng hề có triệu chứng gì cả, có người đến dương tính, có người phát bệnh đến cảm lạnh điển hình, có người lại đến viêm phổi, có người lại trầm trọng suy hô hấp cấp, có trường hợp dẫn đến tử vong.
Qua những điều đã trình bày, có thể nhìn thấy từ những sự lớn lao như vận hành trời đất, cho đến những hoạt động tương tác giữa cơ thể với những thứ li ti không thể nhìn thấy bằng mắt, đều phải tuân thủ theo quy luật nhân quả. Trời đất cũng ảnh hưởng tới cộng nghiệp của con người, chỉ một đợt cách ly con người bắt đầu hoảng sợ về những tạo tác của mình, những tham sân độc địa có vẻ chững lại. Những năng lực hung hiểm từ lòng dạ con người bớt đi, chúng ta đã thấy ngay những hiện tượng tích cực của giới tự nhiên.
Theo một số thông tin mạng chưa có điều kiện kiểm chứng, đại học Stanford đã tính toán việc cải thiện về chất lượng không khí ghi nhận ở Trung Quốc có thể đã cứu sống 4,000 trẻ em dưới 5 tuổi và 73,000 người lớn trên 70 tuổi. Thậm chí, các ước tính thận trọng hơn cho thấy, số lượng người được cứu sống nhờ việc cải thiện chất lượng không khí nhiều gấp 20 lần số tử vong do virus đã giảm đáng kể không khí ở nhiều nơi trên thế giới. Đặc biệt tại Trung Quốc, Mỹ và các quốc gia công nghiệp phát triển ở châu Âu. Sự trong vắt kỳ lạ của bầu trời Vũ Hán, hình ảnh ngọn Kailash hùng vĩ của dãy Himalaya vẫn rõ mồn một, dù ảnh chụp cách xa đến 200km. Những đàn cá heo tung tăng thanh bình ở nhiều bãi biển trên thế giới. Nhờ những bãi biển vắng bóng người dọc bờ biển của bang Mozlla phía đông Ấn Độ, hơn 475,000 con rùa biển Olive Ridley bị đe dọa đã lên bờ làm tổ và đẻ, ước tính hơn 60 triệu quả trứng, hứa hẹn một sự phát triển diệu kỳ số lượng loài rùa biển nổi tiếng này.
Như vậy, về cái lợi và cái hại thật cũng khó đối sánh cho hết, chỉ biết rằng những biến động của tự nhiên đều có lý của nó, mà điều cốt tủy là tái lập lại trật tự đã mất quân bình do những hành động tàn phá phát sinh từ lòng tham của con người, cũng không ngoài quy luật nhân quả.
Về cơ thể con người cũng vậy, nhiều nghiên cứu cũng cho biết, thường những tế bào nhiễm virus là những tế bào có vấn đề thương tổn, sự hấp phụ virus vào những tế bào này và hoàn tất những quy trình nhân chia tiếp theo cũng có mục đích tiêu hủy tế bào bệnh tật, cũng là một cách tự làm sạch cơ thể. Nói cách khác, cũng là một chứng lý cho sự giải quyết nghiệp lực của con người để sau một đợt bệnh cúm thuần túy đường hô hấp sẽ thông thoáng hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Tất nhiên, nếu đường hô hấp tổn thương quá nhiều có thể gây hậu quả nghiêm trọng, đó cũng là điều không khó để giải thích bằng nghiệp lực.
Điều này cũng giải thích nguyên nhân cùng một tác nhân gây bệnh, nhất quán đến từng số lượng, tính chất và trật tự sắp xếp của các nucleotit xấp xỉ 30,000 và đồng đều chủng loại 29 protein, con người lại có những triệu chứng hoàn toàn khác nhau, mức độ nặng nhẹ khác nhau: có người chỉ thoảng qua chẳng có triệu chứng gì, có người lại suy hô hấp cấp dẫn đến tử vong. Vì giảm vị trí số lượng chức năng và mức độ tổn thương của các tế bào hô hấp của mỗi người khác nhau mà nhìn nhận về mặt giáo lý Phật môn, là sự tích lũy nghiệp lực của mỗi người mỗi khác và cách giải quyết nghiệp lực của mỗi người, mỗi cá nhân hoàn toàn không giống nhau.
Trên cơ thể con người, dù nghiên cứu thấu đáo về thế giới vi thể chúng ta không thể chứng minh rõ ràng nghiệp lực đang nằm ở đâu trong cái cơ thể vi diệu xấp xỉ khoảng 75,000 tỷ tế bào này. Nhưng có những nghịch lý trong nhiều lĩnh vực qua tích lũy những kinh nghiệm cuộc sống, nhìn nhận những cái nhân duyên đến kết quả bệnh tật. Nhờ vào thành tựu kết quả của những khoa học tiên tiến về khảo sát vi thể, càng giúp cho chúng ta thấy ra được mọi hoạt động của đời người, đang được chi phối bởi một quy luật rõ ràng rất mực công bằng, có cả một hệ thống sổ sách chi li không thừa, không thiếu để giải quyết sự vay trả của con người và tất nhiên đó là luật nhân quả.
Với đôi mắt phàm phu, chúng ta chỉ thấy được quả xoài, nhưng không thể thấy được quả xoài được tích lũy nơi đâu trong cây xoài, nhưng phải hiểu vì thuộc nơi cây xoài và khi hội đủ cơ duyên quả xoài sẽ trổ ra đúng lúc, đúng mùa. Và cũng vậy, không thể có được những minh chứng đầy đủ nhưng chỉ cần hiểu nhân quả như vậy, tin vào nhân quả, sống cẩn trọng với những nguyên tắc của quy luật nhân quả, con người sẽ tốt lên và tất nhiên nhân loại cũng sẽ tốt lên, thế giới sẽ tốt lên.
VII- Kết luận
Nếu chúng ta tin vào nghiệp lực, tức là biết gánh lấy trách nhiệm cá nhân đối với bệnh tật và sức khỏe. Sức khỏe và bệnh tật đều do chúng ta quyết định tất cả mà phần lớn do chính nghiệp lực hiện tiền, nên muốn tốt thì phải có sự nỗ lực tự thân của mỗi người. Phật giáo khuyên con người phải bình tâm tìm kiếm nguyên nhân của bệnh tật và khổ đau trong chính bản thân mình và đức Phật đã định ra rất nhiều những pháp môn để Phật tử có thể nương tựa vào và hành trì để có được sự an nhiên, tự tại. Nên phải hiểu rằng, tất cả các pháp môn của nhà Phật đều có tác dụng bảo vệ kiện toàn sức khỏe, phòng ngừa điều trị bệnh tật để giữ lấy cái thân tạm bợ này làm phương tiện đi đến giải thoát. Khi nhân đã lỡ gieo do nghiệp báo, quả tất yếu phải trổ, nhưng trong trường hợp ấy chánh kiến và tác ý trong sạch có thể sửa chữa phần nào cái nghiệp và công phu tu tập càng giúp cho chúng ta nhận lãnh nghiệp quả nhẹ nhàng hơn.
Có thể lấy ví dụ sống động trong kinh sách về trường hợp dịch bệnh mà chúng ta lưu tâm: Phẩm hạt muối ở trong kinhTăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya). Đại để, ví von nghiệp lực con người như một muỗng muối đắng chát tất yếu phải nhận, xong nếu có một đời sống phạm hạnh: thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập không có hạn hẹp, tự ngã to lớn, đời sống vô lượng thì sẽ tạo ra được một lượng nước công đức lớn lao như nước sông Hằng mà muỗng muối kia không làm mặn được. Cũng vậy, xét trên một con người, nếu đã có thời gian hành trì một pháp môn nào đó lại có duyên nhiễm SARS-CoV-2 thì tùy theo mức công phu và thời gian tu tập để có thể cảm nhận lấy mức độ triệu chứng tật bệnh nào đó trong các cấp độ nhiễm bệnh.
Ví như công phu tu tập nhiều năm nghiêm cẩn, virus xâm nhập rồi tự ra đi vì không tìm được tế bào tổn thương thích ứng. Nếu tu tập công phu ít hơn, có thể dương tính trong máu nhiễm bệnh không phát dần dần cũng về lại âm tính. Nếu ít hơn nữa, có thể phát một bệnh cảm lạnh điển hình: sốt, ho, đau đầu, nhức mỏi, viêm họng, v.v… chừng một đôi tuần rồi khỏi. Nếu có công phu nhưng lại nhiễm những thói quen xấu như thức khuya, chất kích thích quá nhiều hay lối sống không điều độ hoặc thường xuyên tiếp xúc với chất thích ứng tạo biểu mô đường hô hấp như khói, bụi, hóa chất thì có thể dẫn đến viêm phổi suy hô hấp cấp. Do vậy với một Phật tử sống trong địa phương có dịch, ngoại trừ tuân thủ những khuyến cáo của ngành Y tế như: khẩu trang, rửa tay, súc học, rửa mũi, khoảng cách 2m, hạn chế tiếp xúc đông người, cách ly,v.v…
Càng phải chuyên tâm hành trì các pháp môn của nhà Phật như một phương cách hiệu quả nhất để tạo ra một dung lượng nước lớn công đức, thân tâm đều khang kiện có thể làm nhạt đi muỗng muối nghiệp quả tạo thành do duyên virus và phải có niềm tin vào việc đó. Không chỉ ở nghiệp hiện tiền, ngay cả tiền nghiệp cũng có tác dụng như đạo lý, ăn uống đúng đạo dưỡng sinh, thói quen sinh hoạt tốt, giữ gìn tâm bình yên an lạc, vận động đều đặn hợp lý. Con người hoàn toàn có thể viết lại bản đồ gen di truyền cho bản thân một cách tích cực. Tất nhiên, ngược lại bản đồ gen di truyền cũng có thể viết lại xấu đi một cách dễ dàng hơn thông qua sự buông thả trong ăn uống, bừa bãi trong sinh hoạt, ỳ ạch trong vận động, không biết tiết chế tham dục và nếu gặp một cái duyên như virus thì chúng ta có thể hiểu những nguy cơ nào có thể xảy đến.
Qua những điều đã phân tích trên, chúng tôi hy vọng rằng: Phật tử có cái nhìn đúng đạo lý hơn khi đứng trước dịch bệnh và hơn thế, mỗi chúng ta đều có thể tự kiểm điểm, tự soát xét bản thân, tự đánh giá công phu tu tập và có thể tự hình dung cũng như nhận định không sai lạc mấy vấn đề bản thân. Trong trường hợp nếu không may nhiễm phải những loại virus như vậy (tức có cái duyên virus) thì với tất cả cái nhân mình đã gieo sẽ phải nhận cái quả mức độ nào đó là điều có thể, đó cũng là điều thiết thực của giáo pháp Thích Ca trong cuộc sống đời thường của chúng ta, ngay bây giờ và ở đây./.
Tuệ Hoa ghi chép, ngày 14/8/2021