Nhân cách của chúng ta được tạo
thành từ nhiều yếu tố khác biệt, một số trong đó là đối nghịch với nhau. Đôi
khi ta yêu thương, đôi khi ta lại hằn học; có lúc ta kiêu ngạo, không nghe lời
khuyên dạy, nhưng có lúc ta lại tò mò, ham học hỏi... Nhân cách của ta không cố
định, vì những tính cách của ta có thể thay đổi. Bằng cách bắt đầu tu tập để
ngày càng quen thuộc hơn với các khuynh hướng tâm lý xây dựng và xa lánh dần
các khuynh hướng tâm lý gây tổn hại, ta có thể làm cho nhân cách của mình được
hoàn thiện.
Những khuynh hướng tâm lý gây bất
an không phải là một phần bản chất của ta. Chúng như những đám mây che khuất
bầu trời bao la trong sáng, và vì thế chúng có thể thay đổi, biến mất. Vì dựa
trên những diễn dịch sai lầm và sự phóng chiếu tư tưởng, nên chúng không thể
tồn tại một khi ta nhận ra được tính chất sai lệch của chúng. Vì thế, khi ta
phát triển trí tuệ và tâm từ bi, các khuynh hướng tâm lý gây bất an sẽ mất dần.
Sự chuyển biến tốt đẹp này không
xảy ra nhờ sự mong ước hay khẩn cầu của chúng ta, mà chỉ có được khi ta đã tạo
ra các nguyên nhân chuyển biến. Khi ta chế ngự dần các khuynh hướng tâm lý gây
bất an, thì kết quả là một trạng thái an bình của tâm thức sẽ tự nhiên sinh
khởi. Chính ta đã tạo ra trạng thái đó và ta có khả năng kiểm soát nó. Tâm
trong sáng thanh tịnh của ta vẫn luôn hiện hữu, nhưng phải đợi khi các khuynh
hướng tâm lý gây bất an được xua tan đi thì mới hiển lộ, như khi mây đen tan
biến thì bầu trời xanh mới hiện ra. Đây chính là cái đẹp của con người chúng
ta; là tiềm năng sẵn có trong mỗi chúng ta.
Đức Phật dạy rằng, những khuynh
hướng tâm lý gây bất an của chúng ta đều mang hai tính chất chung: vô minh và
vị kỷ. Ta không hiểu được bản thân mình là ai, hoặc ta và những hiện tượng khác
tồn tại như thế nào. Như vậy là vô minh. Do vô minh, ta chú trọng thái quá vào
bản thân ta và những gì thuộc sở hữu của ta. Khuynh hướng ích kỷ này lại tiếp
tục phát triển và mang đến cho ta những bất ổn, cho dù chúng có vẻ như bảo vệ
sự an vui cho ta.
Triết lý của tâm vị kỷ là: “Tôi
là quan trọng nhất. Hạnh phúc của tôi là tối yếu, và đau khổ của tôi phải được
trừ bỏ trước nhất.” Điều này nghe có vẻ thật trẻ con, nhưng khi tự xét lại
những tư tưởng của mình, ta có thể thấy rằng, rất nhiều hành vi của ta bị thúc
đẩy bởi khuynh hướng cho rằng “hạnh phúc của tôi lúc này là quan trọng nhất”.
Đây là một khuynh hướng quen
thuộc mà ta đã có từ lúc sinh ra (thậm chí có thể là trước đó nữa). Những đứa
bé chưa biết tư duy bằng ngôn ngữ nhưng vẫn la khóc đòi ăn, không chỉ vì chúng
cảm thấy đói, mà còn là vì tâm thức chúng đang khát khao cái “hạnh phúc của tôi
lúc này”. Xã hội chúng ta nuôi dưỡng tâm vị kỷ, dạy chúng ta tìm kiếm hạnh phúc
cho riêng mình hầu như bằng mọi giá. Cho dù sự cạnh tranh không nhất thiết phải
là vị kỷ, nhưng trong hầu hết trường hợp thì vẫn thường là như vậy, bởi ta đâu
có thường vui theo với người khác hoặc đội khác khi họ vượt hơn ta?
Cuộc đời dạy ta phải dùng mánh
khóe, gian dối để đạt được những gì mình muốn, và miễn là sự không trung thực
của ta không bị phát hiện thì nó sẽ được cho qua một cách kín đáo. Con số rất
nhiều các quan chức nhà nước và lãnh đạo các công ty phải đối mặt với nhiều cáo
buộc phạm tội đã minh họa cho điều này. Thế nhưng, thay vì hả hê chỉ trỏ vào
họ, chúng ta phải nhìn lại xem mình có hành động giống họ hay không.
Là người lớn, chúng ta xảo quyệt
hơn trẻ con, vì ta che đậy khuynh hướng ích kỷ của mình bằng những cung cách
lịch sự và tỏ ra quan tâm đến người khác. Nhưng trong thâm tâm, ta luôn xem
chính mình là quan trọng nhất, người khác chỉ là thứ yếu.
Một số người cho rằng ích kỷ là
bản chất tự nhiên của con người, rằng ta và sự ích kỷ của ta vốn không thể chia
tách, cũng như nước hoa và hương thơm của nó. Ta có cảm giác như thế là vì quan
niệm ích kỷ của ta đã tồn tại từ quá lâu rồi. Trong ý nghĩa đó, ta có thể nói
rằng ích kỷ là một bản chất tự nhiên, vì từ thuở sơ sinh ta đã sẵn mang tính
ích kỷ, và tiếp tục như thế cho đến khi tự ta có sự nỗ lực thay đổi.
Thế nhưng, điều này không có
nghĩa rằng sự ích kỷ là một phần không thể tách rời với chúng ta. Vì nếu đúng
như thế, thì những bậc lãnh đạo tôn giáo lớn làm sao có thể thương yêu mọi
người hơn cả chính bản thân họ? Làm sao một người mẹ có thể yêu thương con cái
hơn chính bản thân mình? Làm sao người ta có thể liều mình để cứu sống người
khác?
Nếu ích kỷ là bản chất cố hữu của
chúng ta, hẳn phải không có phương cách nào để ta tự tu tập, nuôi dưỡng tình
thương yêu bình đẳng và lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh. Tuy nhiên, một
phương cách như thế là có thật. Từ xưa nay, có rất nhiều người đã thành công
trong việc chuyển hóa khuynh hướng ích kỷ của họ và thực sự yêu thương người
khác hơn cả chính bản thân mình.
Nếu ích kỷ là một phần bản chất
của chúng ta, thì lẽ ra quan niệm ích kỷ phải là một phương cách đúng đắn và
lợi lạc để tiếp xúc với cuộc đời. Nhưng như chúng ta đều thấy, sự thật không
phải như thế.
Chúng ta có thể giảm dần tính ích
kỷ và cuối cùng dứt bỏ hẳn khỏi tâm mình. Trước tiên, chúng ta phải nhận ra
được những tai hại của quan niệm ích kỷ. Khi biết rằng nó chính là nguyên nhân
của tất cả những bất ổn không mong muốn, ta sẽ quán xét về cách vận hành của nó
và rồi trừ bỏ được nó.
Tư tưởng ích kỷ có vẻ như là
người bạn của ta, giữ gìn sự lợi ích cho ta, bảo vệ ta khỏi mọi sự tổn hại và
bảo đảm hạnh phúc cho ta. Nhưng có đúng vậy không? Mỗi khi có sự xung đột giữa
hai người, hai nhóm người hoặc hai quốc gia, sự ích kỷ liền xuất hiện. Một bên
bảo vệ quyền lợi của mình, xem đó là những gì thiết yếu nhất. Và bên kia cũng
hành động như vậy. Sự thỏa thuận và hợp tác trở nên khó khăn, mà sự khoan dung,
tha thứ cũng không dễ dàng gì.
Chẳng hạn, khi có một xung đột
trong gia đình, nếu ta không chiếm được ưu thế, ta sẽ không vui. Nếu giành được
phần thắng, có lẽ ta cảm thấy “vui” được trong nhất thời, nhưng sâu thẳm trong
lòng, ta không sao hài lòng với những gì mình đã nói hay đã làm chỉ nhằm giành
cho được ưu thế. Việc buông thả theo sự ích kỷ không giúp ta trở thành người
tốt hơn và đáng kính trọng hơn, cho dù nó có mang lại cho ta quyền lực nhất
thời. Khi chúng ta luôn chăm lo cho bản thân mình trước hết, thì làm sao người
khác có thể hoàn toàn tin cậy vào ta?
Một tai hại khác của tâm ích kỷ
là nó làm cho các bất ổn của ta có vẻ như lớn hơn nhiều so với thực tế. Khi ta
gặp một khó khăn nhỏ nhặt, nhưng sự suy nghĩ nhiều lần về nó sẽ khiến cho bất
ổn ngày càng lớn lên, cho đến khi ta không thể suy nghĩ đến điều gì khác hơn
nó. “Kỳ thi của tôi quan trọng quá!”, “Sếp tôi yêu cầu nhiều quá!”... Sự lưu
tâm quá nhiều đến những vấn đề nhỏ nhặt khiến cho chúng trở nên có tầm vóc cực
kỳ lớn lao với những hệ quả rung trời chuyển đất. Ta than phiền, ta mất ngủ,
rồi bắt đầu sa vào rượu bia, nghiện ngập, thậm chí rơi vào suy nhược thần kinh.
Tóm lại, khuynh hướng ích kỷ là một thỏi nam châm thu hút mọi vấn đề bất ổn đến
với chính ta.
Sự “hợp lý” của khuynh hướng ích kỷ
Lập luận chủ yếu của tâm ích kỷ
là cho rằng ta là trung tâm vũ trụ, là người quan trọng nhất, hạnh phúc và khổ
đau của ta là những điều thiết yếu nhất. Tại sao tôi cảm thấy tôi là quan trọng
nhất? Khuynh hướng ích kỷ sẽ giải thích rằng: “Vì tôi là tôi, tôi không phải là
bạn.”
Tôi cảm thấy tôi là trung tâm vũ
trụ (dù tôi luôn giữ kín điều này không cho ai biết). Nhưng bạn cũng cảm thấy
như vậy, và nhiều người khác cũng đều cảm thấy như vậy. Chỉ riêng việc cảm thấy
hạnh phúc của mình là quan trọng nhất không thể biến điều đó thành sự thật.
Dựa vào đâu mà ta cho rằng hạnh
phúc của mình là quan trọng nhất? Cơn đau răng của tôi có nhức nhối hơn của bạn
chăng? Sự thích thú khi ăn của tôi có lớn hơn so với một người hành khất? Khi
khảo sát vấn đề một cách hợp lý, liệu có bất kỳ ai trong chúng ta có thể nói
rằng hạnh phúc hay khổ đau của mình là lớn hơn hoặc quan trọng hơn so với của
người khác?
Ta có thể nghĩ rằng, vì ta là chủ
gia đình, là giám đốc công ty hoặc là người có kỹ năng, tài giỏi nên ta quan
trọng hơn người khác. Đúng là như vậy, nhưng đó chỉ là vì ta có nhiều trách
nhiệm hơn trong việc phục vụ và giúp đỡ người khác trong cương vị của mình. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa rằng hạnh phúc của ta là tốt đẹp hơn và khổ đau
của ta là tồi tệ hơn so với của người khác. Như ngài Tịch Thiên (Shantideva) có
dạy trong Nhập Bồ Tát Hạnh:
Ta và người giống nhau,
Đều mưu cầu hạnh phúc.
Ta có gì hơn người?
Sao tìm hạnh phúc riêng?
Tất cả chúng ta, người giàu hay
người nghèo, người thông minh hay kẻ tầm thường, người xinh đẹp hay kẻ thô xấu,
cũng đều mong muốn được hạnh phúc và né tránh khổ đau. Chúng ta có thể khác
nhau về phương cách mưu cầu hạnh phúc, nhưng sự mong cầu hạnh phúc là giống
nhau ở tất cả chúng ta. Trong ý nghĩa này, tất cả chúng sinh đều bình đẳng, như
ngài Tịch Thiên có dạy:
Nên trừ khổ cho người,
Vì họ khổ giống ta.
Nên làm lợi cho người,
Vì chúng sinh bình đẳng.
Điều quan trọng phải nhận ra là,
dù tất cả chúng ta đều mong cầu hạnh phúc, nhưng mỗi chúng ta có những cách
khác nhau để đạt được. Chúng ta ưa thích những điều khác nhau, có những giá trị
văn hóa khác nhau và những mục tiêu cá nhân khác nhau. Khi ta trân quý một điều
gì rồi nghĩ rằng mọi người khác cũng phải giống như ta, đó là vị kỷ. Có nhiều
sự hiểu lầm nảy sinh trong giao lưu văn hóa và giữa các thế hệ khác nhau, chỉ
vì ta luôn cho rằng người khác phải trân quý những thứ giống như ta. Việc nhận
biết và tôn trọng sở thích của người khác, cũng như những điều họ không thích,
là cực kỳ quan trọng, cho dù những điều đó có phù hợp với ta hay không.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải
vượt qua những điểm tương đồng về vẻ ngoài giữa mọi người và chú tâm đến một
mức độ sâu xa hơn. Với vẻ bề ngoài, chúng ta có thể nghĩ rằng: “Bạn thích môn
hóa. Tôi thì thấy môn đó chán lắm, nhưng môn lịch sử cổ đại thật thú vị.”, hoặc
là: “Bạn muốn đất nước mình phát triển hiện đại hơn, nhưng tôi muốn đất nước
mình phát triển chậm lại và gần gũi với thiên nhiên nhiều hơn.”
Nếu ta chú tâm vào những sự khác
biệt như thế, ta sẽ thấy mình cách biệt với người khác. Nhưng nếu ta nhìn sâu
hơn và nhận biết rằng, về căn bản chúng ta đều giống nhau ở sự mong cầu hạnh
phúc và né tránh khổ đau, ta sẽ cảm thấy rất gần gũi với người khác. Khi cảm
nhận được sự tương đồng giữa ta với tất cả mọi người, ta sẽ có khả năng giao
tiếp tốt hơn với người khác. Ngài Tịch Thiên đã kêu gọi:
Tay, chân, các bộ phận,
Là một phần thân thể.
Cũng vậy, mỗi chúng sinh,
Là một phần đời sống.
Khi chân ta đạp gai, tay ta liền
đưa xuống nhổ gai ra khỏi chân. Tay ta không
hề do dự. Nó không suy nghĩ: “Tại sao chân không biết tự chăm sóc? Thật là
phiền phức khi phải giúp nó.” Tại sao tay dễ dàng giúp đỡ chân như vậy? Vì
chúng được xem như là những bộ phận trong cùng một tổng thể, cơ thể của chúng
ta.
Tương tự, nếu chúng ta xem mọi
chúng sinh đều là một phần trong tổng thể đời sống, thì ta không thấy phiền
toái khi giúp đỡ người khác. Đó là ta đang giúp đỡ cho một phần khác trong một
tổng thể lớn hơn mà chính ta cũng là một phần trong đó. Thay vì tự nhận thức về
mình như những con người độc lập, chúng ta sẽ hiểu ra được rằng, trong thực tế
chúng ta luôn phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, ta sẽ giúp đỡ người khác như cứu giúp
chính bản thân mình.
Bằng cách này, chúng ta sẽ giúp
đỡ mà không sinh tâm kiêu mạn. Khi tay giúp đỡ chân, nó không suy nghĩ: “Tôi
thật vĩ đại! Xem tôi này! Tôi đã hi sinh quá nhiều cho cái chân. Tôi mong cái
chân phải biết ơn về những gì tôi đã làm cho nó.” Tay
chỉ giúp đỡ chân thôi. Không hề có sự cao ngạo hay kiêu mạn.
Cũng vậy, chẳng có lý do gì để ta
kiêu hãnh về việc đã làm nhiều việc giúp người khác. Khi ta đã quen thuộc với ý
tưởng rằng tất cả chúng ta đều là một phần trong tổng thể đời sống, thì khi ấy
việc giúp đỡ người khác cũng sẽ đơn giản như hiện nay ta giúp đỡ chính bản thân
mình.
Nhờ liên tục quán chiếu về tính
bình đẳng giữa bản thân ta và người khác, ta có thể trừ bỏ sự ích kỷ ra khỏi
tâm thức mình. Khi ngọn đèn được thắp lên trong phòng, bóng tối sẽ tự nhiên
biến mất. Cũng vậy, khi những nhận thức sai lầm và định kiến của khuynh hướng
vị kỷ bị phơi bày bởi sự nhận hiểu sâu sắc, khuynh hướng ích kỷ sẽ tự nhiên
biến mất. Bằng cách thường xuyên nuôi dưỡng tinh thần vị tha, ta sẽ khiến cho
nó trở nên một khuynh hướng tự nhiên giống như khuynh hướng ích kỷ hiện nay
vậy.
Tâm vị kỷ được bộc lộ qua mọi
hành động của chúng ta. Tuy nhiên, ta không thể đánh giá mức độ ích kỷ và vị
tha của người khác chỉ hoàn toàn dựa vào hành động của họ. Chẳng hạn, một người
khoa trương tặng một ngàn đô-la cho hội từ thiện với động cơ thúc đẩy là để bạn
bè thấy mình là người hào phóng. Một người khác chỉ khiêm tốn đóng góp năm
đô-la, nhưng với ước nguyện chân thành cho người khác được lợi lạc. Trong thực
tế, chính người thứ hai mới là người rộng lượng, còn người thứ nhất vốn thật
keo kiệt, chỉ cầu lấy tiếng tốt cho mình mà thôi.
Xóa bỏ sự nghi ngờ
Một số người có thể mang mặc cảm
tội lỗi về sự ích kỷ của mình. Điều này hoàn toàn vô ích. Tự trách mình là một
mánh khóe của tâm ích kỷ, vì điều này vẫn là nhấn mạnh vào “cái tôi” cũng như ý
tưởng “tôi tồi tệ biết bao”.
Điều chúng ta cần là hành động
chứ không phải mặc cảm tội lỗi. Khi biết mình đang ích kỷ, ta có thể nhớ lại
rằng người khác cũng mong cầu hạnh phúc không kém bản thân ta. Ta có thể thử
hình dung việc người khác sẽ vui mừng biết bao nếu được ta giúp đỡ. Khi nhớ đến
lòng tốt mà tất cả chúng sinh đã dành cho ta trong những kiếp sống quá khứ cũng
như trong hiện tại, ta sẽ muốn đền đáp sự chăm nom của họ. Bằng cách này,
khuynh hướng ích kỷ sẽ tự nhiên giảm dần và tâm nguyện giúp đỡ người khác sẽ
tăng thêm.
Dứt bỏ sự ích kỷ không có nghĩa
là ta sẽ trao cho mọi người tất cả những gì họ muốn. Lòng vị tha phải đi kèm
với trí tuệ. Với một người nghiện ngập, cho họ uống rượu không phải là từ bi.
Buông lỏng trẻ em lớn lên ngoài khuôn phép không phải là điều có lợi cho trẻ.
Trừ bỏ lòng vị kỷ cũng không có
nghĩa là ta phải luôn nhượng bộ người khác và không bao giờ bảo vệ quan điểm
riêng của mình. Khi có sự bất đồng quan điểm giữa ta và người khác, điều khôn
ngoan là không để tâm mình giận dữ và bám chấp. Nếu ta ngoan cố bám chặt một
quan điểm chỉ đơn giản vì đó là quan điểm của ta, thì đó là ta đã tự giới hạn
chính mình. Nếu cố chấp không thử qua ý tưởng của người khác, ta sẽ không thể
học hỏi gì thêm. Nhưng khi trong lòng ta đã trừ sạch những khuynh hướng gây tổn
hại, ta có thể nhìn sự việc với một quan điểm thông thoáng và tìm ra giải pháp
có lợi cho nhiều người nhất. Có thể là ta vẫn tiếp tục nghiêng về quan điểm
trước đây của mình, nhưng là với một tâm trạng điềm tĩnh. Cũng có thể ta sẽ
thay đổi quan điểm.
Một số người lập luận rằng: “Nếu
ta không ích kỷ, ta sẽ không có khát vọng nào trong cuộc đời cả và sẽ trở nên
thụ động, không có mục đích sống.” Cho dù động cơ ích kỷ có thể thôi thúc ta nỗ
lực để đạt những kết quả tốt trong kỳ thi, giành được một địa vị cao trong công
ty, hay phát minh những thiết bị mới, nhưng điều đó không có nghĩa rằng ta nhất
thiết phải từ bỏ những việc làm đó nếu ta thoát khỏi sự trói buộc của tâm ích
kỷ.
Tất nhiên, ta sẽ từ bỏ một số
hành vi khi ta không còn mưu cầu lợi ích cho riêng mình. Chẳng hạn, ta sẽ từ bỏ
việc nhục mạ và phê phán người khác. Nhưng những hành vi khác có thể vẫn được
ta theo đuổi với một động lực thôi thúc giàu lòng bi mẫn hơn. Ta có thể nỗ lực
học tập tốt ở trường để gặt hái nhiều kiến thức nhằm sử dụng vào việc làm lợi
ích cho người khác. Ta có thể phát minh nhiều thứ hoặc kinh doanh với tâm
nguyện dùng khả năng của mình để phụng sự người khác. Ta có thể từ bỏ sự cạnh
tranh mang tính ích kỷ và thay vào đó là nỗ lực hết mình để làm lợi ích cho
người khác.
Cho dù những người khác trên
thương trường vẫn tiếp tục kinh doanh với động cơ ích kỷ, nhưng điều đó không
ngăn ta thay đổi động cơ của chính mình. Một nữ doanh nhân Hong
Kong nói với tôi, theo kinh nghiệm của cô thì khi ta kinh doanh có
đạo đức và thật lòng quan tâm đến khách hàng hay các nhà cung cấp của mình, họ
sẽ tin tưởng ta. Nhờ có mối quan hệ tốt đó, họ mới tiếp tục hợp tác với ta và
giới thiệu thêm nhiều người khác đến với ta. Nếu chúng ta ích kỷ chỉ quan tâm
đến việc thu về thật nhiều tiền và mua bán theo cách có lợi cho mình nhất, điều
đó xét về lâu dài sẽ không hề có lợi. Cô kết luận rằng, chính việc giữ đạo đức
tốt và quan tâm đến người khác đã giúp cho kinh doanh phát triển tốt!
Dứt bỏ sự ích kỷ không có nghĩa
là ta không còn mong muốn được sống hoặc không tự bảo vệ mình khi gặp nguy
hiểm. Thế nhưng, sát hại người khác không phải là giải pháp duy nhất khi ta gặp
nguy hiểm. Là con người, ta có thể sử dụng trí thông minh và sự sáng tạo để
giải quyết những bất ổn mà không cần phải dựa vào bạo lực.
Với lòng bi mẫn thương xót người
đang gây tổn hại cho ta, ta có thể ngăn chặn người ấy, vì không muốn họ phải
nhận lấy quả báo xấu ác do hành vi đó, và cũng vì ta mong muốn kéo dài đời sống
của mình để phụng sự nhiều hơn cho chúng sinh. Mặc dù trước đây có thể ta chưa
từng suy nghĩ theo cách này, nhưng đó không phải là một cách nghĩ không thực tế
hay không khả thi. Bằng cách tu tập tâm từ, cách suy nghĩ như thế sẽ phát triển
trong ta.
Sự cần thiết của tâm từ ái
Tâm từ ái là nguyên nhân thiết
yếu để có được hạnh phúc. Đối xử tốt với người khác là điều tử tế nhất ta có
thể làm cho chính mình. Khi ta tôn trọng người khác, biết quan tâm đến những
nhu cầu, quan điểm và mong ước của họ, sự thù nghịch sẽ không còn nữa. Một cuộc
đối đầu cần phải có hai bên, và nếu ta từ chối không trở thành một bên trong đó
thì sẽ không có tranh chấp.
Tâm từ có thể biểu hiện ngay
trong những việc tốt nhỏ nhặt. Chẳng hạn, với sự quan tâm đến môi trường chung,
chúng ta sẽ tái chế giấy báo, chai thủy tinh, lon kim loại. Khi gặp người có
việc gấp đang cùng xếp hàng chờ đợi, ta sẽ nhường người ấy được phục vụ trước
mình. Chúng ta sẽ không phàn nàn khi tiền thuế của mình được sử dụng vào mục
đích giáo dục và tạo công ăn việc làm cho những người nghèo khó.
Xét về lâu dài, ta càng giúp ích
cho nhiều người thì ta lại càng được hạnh phúc nhiều hơn. Chúng ta sống trong
một thế giới mà tất cả mọi người đều phụ thuộc lẫn nhau. Vì thế, khi những
người khác được hạnh phúc nhiều hơn thì môi trường sống của ta cũng sẽ an vui
hơn. Như đức Đạt-lai Lạt-ma có nói: “Nếu bạn muốn ích kỷ thì hãy ích kỷ một
cách khôn ngoan. Và cách tốt nhất để ích kỷ một cách khôn ngoan là giúp đỡ
người khác.”
Khi người khác đang bị khích
động, tốt nhất là đừng phản ứng tức thì với họ, mà hãy đợi cho họ bình tĩnh lại
rồi mới đưa vấn đề ra thảo luận. Bằng cách đó, chúng ta sẽ tránh được nguy cơ
tự mình cũng nổi giận khi đối đầu với cơn giận của họ. Hơn thế nữa, khi người
ta đang mất bình tĩnh, họ thường không có khả năng lắng nghe và thảo luận.
Ngược lại, nếu ta đợi cho họ bình tâm và tiếp xúc với họ sau đó, sự việc sẽ
thường mang lại nhiều kết quả tốt hơn.
Tuy nhiên, mỗi một trường hợp đều
khác nhau. Nếu có người muốn nói chuyện với ta về một vấn đề và ta cao ngạo đáp
lại: “Ồ, lúc này ông không biết lý lẽ gì đâu, tôi sẽ không nói chuyện với ông.”
Như vậy sẽ chẳng giúp ích được gì. Tâm từ không hề cao ngạo mà luôn khéo léo và
quan tâm giúp đỡ.
Trong một lần hội thảo, tôi đề
nghị những người tham dự diễn lại một tình huống tranh cãi trong cuộc sống của
họ. Lần đầu tiên, họ diễn lại trường hợp tranh cãi giữa hai người đều nóng
giận, cố chấp, mỗi người nhận thức sự việc theo quan điểm vị kỷ của riêng mình.
Lần thứ hai, họ diễn lại cũng tình huống đó, nhưng với một người đưa ra lập
luận và người kia thì lắng nghe, nhận hiểu được tình thế của anh ta. Chúng tôi
vô cùng kinh ngạc trước sự khác biệt quá lớn giữa hai khả năng diễn ra của cùng
một tình huống!
Với tâm từ, chúng ta sẽ sống hòa
hợp với những người không cùng tín ngưỡng, vì sự tranh cãi với những người khác
tín ngưỡng sẽ không giúp ta đạt được điều gì cả. Dù là ở nơi làm việc hoặc
trong gia đình, ta luôn sẵn có khả năng giải quyết những khác biệt về quan
điểm. Những người làm việc trong các lãnh vực hòa giải tranh chấp đều nhận ra
giá trị của tâm từ trong việc đạt đến sự đồng thuận. Những chuyên gia trị liệu
và các nhà tư vấn gia đình đều nhấn mạnh sự cần thiết của tâm từ trong việc làm
dịu đi những xung đột nội tâm và ngoại cảnh của một con người.
Tâm từ là cội nguồn của sự hòa
hợp và tôn trọng lẫn nhau. Tâm từ giúp ta không cảm thấy xa lạ hay sợ sệt người
khác. Tâm từ cũng bảo vệ ta không rơi vào sân hận, tham luyến, bảo thủ, kiêu
mạn hay đố kỵ. Khi có cơ hội giúp đỡ người khác, chúng ta sẽ không thiếu đi
quyết tâm và lòng bi mẫn. Nếu các nhà lãnh đạo chính trị có tâm công bằng và từ
ái, hẳn thế giới này sẽ khác đi biết bao!
Vì mọi bất ổn đều khởi sinh từ
khuynh hướng vị kỷ, nên điều khôn ngoan đối với mỗi chúng ta là phải nỗ lực trừ
bỏ khuynh hướng ấy. Nền hòa bình thế giới không đến từ sự chiến thắng trong
chiến tranh, cũng không thể quy định bởi luật pháp. Hòa bình có được nhờ vào
việc trừ bỏ sự ích kỷ và phát triển tâm từ của mỗi một cá nhân. Tất nhiên là
điều này không thể thực hiện ngay, nhưng mỗi chúng ta có thể bắt đầu phần đóng
góp của mình kể từ hôm nay. Kết quả lợi lạc trong đời sống của ta sẽ tức thì
được nhận biết rõ ràng.
Ni sư Thubten Chodron
Hoàng Nguyên và Nguyễn Minh Tiến
dịch
Nguồn: rongmotamhon.netXem thêm: 'Gen vị kỷ - nguồn gốc của văn hóa nhân loại?'; 'Nghĩ về sự Ích kỷ'; 'Bản tính con người có phải ích kỉ hay không?'