Khởi thủy loài người có mặt trên hành tinh này đã từ bao lâu rồi không ai biết được. Khoa học văn minh hiện nay cũng chỉ giả thuyết lập luận có thể vài triệu năm? Nền văn minh ngày xưa nếu còn sót lại cũng toàn là đá và đất; tất cả đã hóa thạch, đã trở về với dạng ban đầu của khởi thuỷ vốn là bốn chất Đất Nước Gió Lửa mà ra. Còn bản thân quả địa cầu, tuổi tác của nó, hình thành ra sao thì văn minh loài người chỉ là suy đoán!
Suy đoán giả thuyết chứng minh không khác hơn là do vô số nguyên tử phân tử kết hợp tạo thành, và phải trải qua vô số điều kiện hợp lý hợp thời nhất. Lại nói bản thân con người, một hình hài kích thước li ti quá nhỏ khi đem so sánh với khối hình của trái đất, thì văn minh khoa học từ xưa đến nay vẫn chưa khám phá chinh phục được! Nghĩa là con người vẫn sống trong sự bất toại ý, không hài lòng, đau khổ, dù đời sống đang dư thừa vật chất ở thế kỷ hôm nay.
Suy đoán giả thuyết chứng minh không khác hơn là do vô số nguyên tử phân tử kết hợp tạo thành, và phải trải qua vô số điều kiện hợp lý hợp thời nhất. Lại nói bản thân con người, một hình hài kích thước li ti quá nhỏ khi đem so sánh với khối hình của trái đất, thì văn minh khoa học từ xưa đến nay vẫn chưa khám phá chinh phục được! Nghĩa là con người vẫn sống trong sự bất toại ý, không hài lòng, đau khổ, dù đời sống đang dư thừa vật chất ở thế kỷ hôm nay.
Sự thật nêu trên quá rõ ràng, thế mà con người từ xưa đã tự hào về mình; cho đến ngày nay càng tự hào hơn, nhưng rồi tự hào đó hóa ra khù khờ quờ quạng với cái hiểu biết chính mình trong cái thế giới cũ rích xưa nay; và còn không biết bao nhiêu thế giới khác ngoài hành tinh này, mà con người chưa biết được!
Không phải cái kích thước li ti của một sinh vật hai chân biết suy tư biết học hiểu, đem so với kích thước quả địa cầu, rồi giật mình sợ hãi; mà dù kích thước của loài người có lớn như quả địa cầu đi nữa, thì sự hiểu biết đó cũng chẳng khác hơn cái hiểu biết từ khởi thủy đến nay.
Hiểu biết thường giành giật, đấu tranh cho tự ngã; hiểu biết như vậy, có nhỏ lớn ra sao chẳng khác gì! Thử nhìn lại xem, những công trình thành quách cổ kính ngày xưa có khác ngày nay không? Có khác ở chất liệu, nhưng không khác sự tàn rụi suy tàn của thời gian, và trơ trọi hoang tàn không bóng người, không sinh khí! Ngày nay cũng vậy, dù có khác qua chất liệu bằng kim loại sắt thép, nhưng không khác sự tàn rụi sụp đổ của một ngày tương lai một cách tuyệt đối đã và đang xảy ra.
Nói cho cùng con người từ khi xuất hiện trên hành tinh này: biết suy niệm, tư duy, biết xây dựng hình thức vật chất từ đơn giản đến phức tạp thế nào, từ xưa đến nay, từ khởi thủy đến hiện đại văn minh, cuối cùng cũng không khác chỉ cả! Nghĩa là vẫn không nắm giữ được sản phẩm công cụ mà con người làm ra; càng không nắm giữ được chính cái thân xác mà con người tự cho là bản ngã thân thể của mình. Không nắm giữ được chi cả!
Từ xưa, từ lúc dân số rất ít, chỉ vài trăm ngàn, cho đến bây giờ đã hơn sáu tỉ, con người cũng không có gì thay đổi. Không nắm giữ được gì!
Ai là kẻ chứng kiến hình ảnh lập đi lập lại này?
Chính là trái đất, và người bạn nhỏ của trái đất là mặt trăng. Trái đất chứng kiến nhiều hơn, nhưng quan sát thấy rõ bên này bên kia, con người thế này thế nọ ra sao, thì mặt trăng từ trên cao quan sát rõ ràng nhất. Cứ hàng lớp người này ra đi, rồi lớp sau nối tiếp, ra đi lần lượt không ngừng; và vật thể di tích của lớp người đi trước để lại đời sau, cũng tiếp tục ra đi, thay cho lớp sau nối tiếp. Cứ dựng lên, rồi sập ngã, cứ sinh ra rồi chết mất....
Trái đất chắc cũng buồn, mặt trăng làm sao không xúc động. Trái đất buồn vì chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh giết chóc từ xưa nay, chẳng làm con người thức tỉnh, chẳng làm con người thay đổi. Và buồn hơn trái đất đã mệt mỏi kiệt quệ bởi sự cày bừa dày xéo trên thể hình của trái đất.
Nhưng rồi trái đất cũng lên tiếng báo động cho con người biết, bằng sự thay đổi khí hậu thời tiết, tạo thành những rung động đau thương, mà trái đất không bao giờ muốn... vì tất cả chỉ là do con người mà ra.
Xét ra con người xưa và nay tự cho mình hiểu biết, nhưng thật sự hiểu biết chỉ làm khổ cho nhau! Thế thì ai là người biết, ai có thể nói lại cho con người thức tỉnh?
Đó chính là Đấng Toàn Giác là một con người duy nhất ở trần gian này, đã xuất hiện cách đây hơn 2600 năm. Ngài là người duy nhất hiểu biết được mọi thứ, nhất là hiểu biết được chính mình một cách tuyệt đối rốt ráo siêu việt. Ngài biết gì?
Thế giới hiện tượng chung quanh
Thế giới hiện tượng chung quanh, chỉ là những nhân duyên tạo thành; nhân duyên đó là do nhiều nhân duyên khác nữa kết nối với nhau đi gần với nhau, cho đến đúng giờ đúng lúc hiện hữu, hình thành tạo nên hết thảy mọi thứ, mà con người đang thấy đang giành giật chiếm hữu. Từ khi Ngài còn là Thái tử con vua Tịnh Phạn, Ngài đã thấy sự thật thế giới chung quanh rồi.
Thái tử nhìn thấy mọi thứ trong cung điện từ hừng sáng cho đến xế chiều, tất cả đều không thật, đều thay đổi. Thấy bông hoa trưng bày trang trí, thường biến sắc rồi phải vứt bỏ đi, thay bông hoa khác. Thấy bàn ghế long sàng vương phục phải lau chùi giặt giũ, vì hôm qua hôm nay đã lắm bụi, đã không còn tinh sạch nữa. Thấy gia nhân nô lệ phải thay phiên suốt ngày làm việc, để giữ phòng ốc cung điện bóng sáng sạch thơm. Và hình ảnh không đẹp nhất là thấy khuôn mặt mọi người dần dần thay đổi, với nét nhăn, nét hằn già theo năm tháng.
Hiện tượng thế giới như vậy, chỉ một con người duy nhất, một Thái tử Sĩ Đạt Ta ở thế gian này đã thấy và hiểu như vậy.
Cho đến lúc cái thấy phải thúc giục Ngài đặt ra câu hỏi: xưa nay có ai đã thấy việc này?
Đương nhiên mọi người đều thấy, có khi chính mọi người cố làm thay đổi dấu đi cái hiện tượng mới cũ của sự vật chung quanh. Nhưng mọi người thấy mà không bao giờ hiểu! Không hiểu nên không nghi vấn; và như thế mà trôi để chờ đợi một người duy nhất, đó chính là Ngài. Ngài xuất hiện để đặt ra bao nhiêu câu hỏi, rồi tự trả lời, tự tìm kiếm giải đáp.
Khi đặt ra câu hỏi, nghĩa là Ngài đã tự biết được phần nào giải đáp. Và khi không một ai có thể giải đáp cho Ngài, thì Ngài lại nhìn vào chính bản thân vật chất của Ngài, thấy rằng hiện tượng chung quanh với thân xác này đều có ảnh hưởng tác động với nhau. Nếu sự vật tất cả không thể nào giữ được nguyên vẹn mãi mãi, thì thân thể mọi người cũng là vật thể sẽ chắc chắn không giữ được bền lâu. Vật thể sẽ hư hoại, và thân thể con người rồi sẽ chết mất.
Ngài rời bỏ cung điện, bỏ tất cả người thương nhất, để tìm câu trả lời, tìm sự giải thoát; thoát khỏi những dính mắc ràng buộc của sự vật của con người, của hiện tượng tàn rụi và sinh tử của thế gian.
Cuộc tìm kiếm tầm sư học đạo thành tựu, nhưng không ai có thể làm Thầy được Ngài. Ngài đã tự làm Thầy chính mình, và trở thành một chúng sinh duy nhất, một con người vượt lên tất cả, và đúng tên gọi, một vị Phật ra đời, một con người thức tỉnh hoàn toàn, tuyệt đối khác xa với hết thảy con người đang lặn hụp trong sinh tử xưa nay.
Bấy giờ Ngài dạy rằng: hiện tượng chung quanh đều là giả, đều không thật, do chúng chỉ là những phân tử, nguyên tử, hay gọi là chủng tử nhân duyên, hợp lại nhau mà thành. Vì sự hợp lại thành, nên chúng không tìm thấy đâu là tự thể thật sự của chúng. Gọi chúng bằng danh từ này, mỹ từ kia, là chỉ để phân biệt chứ không có một chỗ nào đúng với danh từ của chúng. Vì như đã nói chúng chỉ là hết thảy các thứ làm thành, nên không có chỗ nào để gọi để đặt định đúng với danh từ mỹ ngữ đó. Gọi cung điện, Long sàn, vương bào, ngai vàng, Hoàng thượng... đều là giả danh, đều do hết thảy các thứ gá vào mới có hình dáng đặt tên. Nếu phân tán chúng ra, sẽ thấy mọi thứ sinh ra các tên khác, và cứ phân tán tiếp tục cho đến lúc không còn tên gọi nữa, vì chúng đã biến thành phân tử hay nguyên tử hay hư không rồi.
Như vậy hiện tượng vật chất là giả, giả nên không thể tồn tại, và con người không hiểu nên nô lệ chúng, dẫn đến đau khổ, vì một khi chúng biến đổi mất đi theo luật vô thường.
Thế giới trong tâm con người
Không đợi rời hoàng cung tầm đạo rồi thành đạo, khi còn ở hoàng cung Ngài đã thấy sự giả dối của thân thể này. Ngài thấy sự đau đớn bệnh tật của người chung quanh; thấy sự chết chóc, và thấy từ một thân xác khoẻ mạnh trẻ trung đến cụ già lụm khụm; thấy bệnh tật chết đi là một sự kiện không thể thay đổi, không thể che giấu được.
Ngài thấy sự thay đổi tự bên trong con người khi đói no, khi lạnh nóng, và nhất là tư tưởng không cố định, không lập trường không kiên định... thường thay đổi, thường buồn vui, thường cau có tham giận trong tâm tưởng. Tư tưởng tâm tư như vậy, chứng tỏ sự không thật của một con người, được cấu tạo bằng một sự nhân duyên mà Ngài cần khám phá.
Đến khi thành Phật, sự quan sát cụ thể ở nơi con người đã thành trong sáng, minh bạch rõ ràng, khiến Ngài phải từ bi hoằng pháp độ chúng sinh, diễn giảng cho mọi người thức tỉnh.
Ngài dạy rằng, thân thể con người luôn thay đổi chẳng khác hiện tượng vật chất, và tâm con người cũng lăng xăn thay đổi vô thường. Nhưng nguồn gốc thay đổi lớn chính là tâm, và do đâu tâm lại thay đổi! Chính là luyến ái tham, sân, dẫn đến si mê hiện tượng trần cảnh. Ngài dạy, tâm là một, nhưng cũng là tất cả; từ vọng tâm chuyển đến chân tâm, từ chân tâm sẽ siêu việt hết thảy. Ngài dạy muốn tìm chân tâm, phải nhận ra vọng tâm. Vọng tâm là sự vô minh, sự không hiểu biết hết thảy các pháp là do duyên sinh duyên diệt.
Chúng ta đã và thường công nhận rằng, thế giới con người là hành tinh trái đất, nằm trong quỹ đạo của thái dương hệ thuộc dãy ngân hà được đặt tên là Milky Way; nhưng thật sự thế giới của chúng ta là thế giới tâm. Chính do cái thế giới con người phát xuất từ Tâm với đầy đủ tham, sân, luyến ái, mới hình thành trái đất này. Nếu không có cái tâm như vậy, ta sẽ không ở thế giới hôm nay. Thế giới hôm nay chỉ là ảnh tượng phản ảnh kết quả từ do tâm.
Thử nghĩ, khi ta buồn, hay ta vui, trong lúc vui buồn như vậy ta không còn biết gì thế giới chung quanh, nếu biết cũng rất ít, ta chỉ chìm sâu vào cái buồn và cái vui đó. Dù buồn vui đó nó là một ảo giác, là vọng tưởng, nhưng nó vẫn làm cho ta quên đi tất cả. Chính lúc như vậy ta đã tạo nên một thế giới trong con người chúng ta. Thành ra khi một người thật buồn họ không còn thiết sống nữa vì thế giới chung quanh trở nên vô nghĩa, trở thành địa ngục!. Cũng vậy người quá vui, họ sẽ nhìn cái gì cũng vui và thế giới chung quanh sẽ trở thành thế giới lạc quan, thế giới thiên đàng! Bấy giờ vui đó chẳng màng đến những gì chung quanh, khi cảm giác lâng lâng trong tâm như vậy.
Các vị Thiền sư đạt đạo họ thường sống trong an định, trong thiền duyệt nên không màng đến thế giới bên ngoài, do đó thế giới của họ ta tưởng giống như mọi người chúng ta; thật ra hoàn toàn khác, dù trên thực tế các vị đang sống ở thế gian. Đó là do tâm các Ngài đã thay đổi đã thành tựu chứng đạo. Như vậy thế giới thật của vị đó là thế giới an định trong cõi thiền cõi tĩnh lặng hoan hỷ. Và ta dư biết đời sau các vị đó sẽ chiêu cảm ra một thế giới thế nào rồi, vì tâm không như tâm của chúng sinh ở cõi ta bà đây.
Cho nên tâm chúng ta tạo ra thế giới này, thế giới này là do tâm; nếu thế giới này quả thật là thế giới mà ta say đắm hay buồn phiền, thì một là ta sẽ rơi vào say đắm mãi mãi trong bất cứ hoàn cảnh nào, và hai là ta sẽ buồn phiền không dứt dù ở bất cứ nơi đâu. Thật sự thì ta khi buồn, khi vui, khi say, khi tỉnh, do đó thế giới tâm đã làm chủ tất cả, đã tạo ra trái đất này.
Như vậy Phật đã thấy và đã dạy cho chúng sinh phải thấy hiện tượng là trần cảnh, vật chất chung quanh đều giả; phải thấy thế giới trong tâm mới là thế giới thật, thế giới không sinh không diệt vượt lên sự vô thường. Phật dạy như vậy, vì chính Ngài đã thành chánh giác, chúng ta sẽ mãi vô minh ngờ ngạc nếu từ chối chân lý này.
Trở lại vấn đề của con người xưa nay từ khi còn sơ khai, còn bộ lạc, dân số còn ít ỏi, cho đến hôm nay đã gần bảy tỉ; con người chỉ biết tạo đau khổ, và tìm vui như bọt bóng. Sống theo hiểu biết tự ngã tranh giành nhau, nhưng lại mâu thuẩn nương tựa nhau mà tranh giành. Sự tranh giành chỉ tự hại mình, lại che giấu biện minh rằng, tranh giành là làm lợi ích cho nhân quần xã hội, cho sự tiến bộ văn minh.
Đức Phật xuất hiện như một con người, và giải thoát chứng quả trước sau cũng trong hình dáng một con người không khác chúng sinh. Ngài xuất hiện hy hữu như vậy, đó là nhân duyên cho trái đất, cho hành tinh trong quỹ đạo Thái Dương Hệ này. May thay chúng ta, loài người đã chứng kiến, đã tìm được chứng tích tin hiểu một con người vĩ đại ấy. Chúng ta phải biết kính ghi tri niệm, học hiểu lời dạy của Ngài; nếu không thì mọi hiện tượng chung quanh ta lại tiếp tục trôi đi qua hàng bao lớp thời gian vô vọng. Cụ thể rõ ràng nhất, tính từ hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, từ khi Phật hiện hữu ở thế gian, mà ta vẫn chưa giác ngộ chưa chứng đạo giải thoát. Vậy thì ai đã tính được bao nhiêu kiếp sống đau khổ luân hồi trong quá khứ của ta? Chắc chắn chỉ có Phật, và có lẽ Phật cũng phải vận trí huệ mới thấy được chứ không phải là việc dễ, dù là Phật đi nữa!
Thế thì thế gian duy nhất một con người, con người siêu việt, là Đấng Giải Thoát khai mở con đường vượt lên sinh tử, giải thoát khổ đau. Và thế gian vô số chúng sinh cũng là con người, những con người đang lặn hụp chìm đắm trong sinh tử cuộc đời; nhưng chúng sinh vẫn là con người không khác Đấng Giải Thoát, với đầy đủ thể tánh thanh tịnh với tất cả nhân duyên mà Đấng Giải Thoát đã chỉ bày cho.
Như thế ảnh tượng cuộc đời thay đổi, hay vạn pháp xoay chuyển không ngừng trong vũ trụ, trong ba cõi, càng làm người học Phật thức tỉnh, càng khơi dậy niềm tri ân, niềm thiết tha học Phật. Để thế giới tương lai, để kiếp sống ngày mai sẽ không còn đau khổ nữa.
Nguyện cầu tất cả chúng sinh trong pháp giới đồng thành Phật đạo.
TK Thích Phổ Huân
Nguồn: quangduc.com