Chí xuất trần

1. Ý nghĩa xuất trần

Tất cả người tu ai cũng có chí xuất trần? Bởi có chí xuất trần nên mới đi tu, nếu không có thì đã ở ngoài thế gian để thụ hưởng dục lạc thế tục, nên đã đi tu tức là có chí xuất trần. Sao là chí xuất trần?

Là chí nguyện cao thượng nguyện thoát khỏi trần lao, vượt ra những trói buộc của thế tục, thoát khỏi ngục tù thế gian đã giam hãm chúng ta từ nhiều kiếp đến nay.

Chữ trần có nhiều nghĩa. Trần là bụi bặm, là ô nhiễm là che mờ sự trong sáng nên nó là cái duyên dẫn chúng ta đi trong lục đạo luân hồi, trong biển khổ sinh tử.

Chữ trần, nói cho đủ là tám mươi bốn nghìn trần lao, nói gọn là sáu trần. Người đời vì vô minh không thấy được lẽ thật của thế gian là đau khổ nên tham đắm rồi đuổi tìm những cái vui giả tạm, là gốc sinh ra các thứ phiền não.

Phật dạy chúng sinh giống như con thiêu thân, cứ thấy ánh sáng là lao vào rồi chịu chết. Cho nên ngài Hàn Sơn (Hàn Sơn-Thập Đắc) là hiện thân của Bồ Tát Văn Thù có nói bài thơ:

Ta thấy người thế gian
Bôn ba chạy đường trần.
Chẳng biết việc trong đây
Đem gì làm bờ bến.

Vinh hoa được mấy ngày
Quyến thuộc gần khoảnh khắc.
Dẫu có ngàn cân vàng
Chẳng bằng nghèo dưới rừng.

Ngài thấy người thế gian cứ lo bôn ba chạy theo con đường trần, hướng ra bên ngoài, chẳng biết được lẽ thật, quên mất cái gốc chân thật chính mình, rồi cuối cùng không biết đem cái gì làm bờ bến để nương tựa.

Mãi đuổi theo những vinh hoa phú quý hư ảo, song thời gian có được mấy ngày! Nó mỏng manh vô thường được đó mất đó. Rồi của cải vàng ngọc cũng vậy, đều là tạm bợ không thực quý. Còn bà con quyến thuộc chỉ gần gũi trong khoảnh khắc cũng đâu có bền bĩ.

Cho nên, dẫu giàu có đến ngàn cân vàng cũng không sánh được với người nghèo sống thong thả ở rừng cây vắng vẻ buông xả hết thảy, đời sống xuất trần không vướng bận. Nghèo, được nói ở đây là nghèo các duyên để sống đời xuất gia thanh tịnh.

Trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ răn: “Một thuở đua vui, chẳng biết vui là nguyên nhân của khổ, nhiều kiếp đuổi theo trần chưa từng tỉnh trở lại, thời giờ qua suông năm tháng dần già, thọ dụng quá nhiều lợi hưởng càng đậm. Nhiều năm dồn tới chẳng nghĩ buông rời, chất chứa càng thêm, lo giữ gìn thân huyễn.”

Tức là, hết kiếp này đến kiếp khác đuổi theo các duyên trần mà chưa từng biết tỉnh lại. Đó mới thật là điều đau buồn. Chúng ta hiện nay cũng được chút tỉnh giác nên mới xuất gia đi tu, nếu không khéo tu lại để ngày giờ năm tháng trôi qua rồi thọ dụng quá nhiều, hưởng lợi càng đậm mà không nghĩ việc xa rời. Cứ mãi tham đắm chất chứa càng ngày càng dính mắc thêm, chỉ lo giữ gìn vóc huyễn, rồi quên mất chí xuất trần của mình.

Tổ cảnh tỉnh người tu, nếu không khéo chỉ lo đuổi theo duyên trần thọ dụng chất chứa cho nhiều, rồi tự bảo hộ rằng: Do có phước nên mới được người cúng dường nhiều. Đâu ngờ sự tham đắm thọ dụng đó càng bào mòn công đức chính mình. Cho nên, đó chỉ làm tăng trưởng lòng tham, mỗi ngày càng lún thêm trong trần mà không hay.

Chúng ta không khéo tuy thân xuất gia mà tâm thì ở trong trần, như vậy chí xuất trần ở đâu?

Ngài Phó Đại Sĩ nói về ý nghĩa xuất gia: “Xuất gia là ra nhà bỏn xẻn, ra nhà tham lam, nhà giết hại, nhà ăn nuốt chúng sinh, ra nhà trộm cướp, ra nhà trái ân bội nghĩa, ra nhà chẳng có khiêm nhường, nhà bàn tán thị phi, cho đến ra nhà tất cả những cái kết hữu vi”.

Xuất trần là như vậy chứ không phải tầm thường. Nếu không thường xuyên kiểm lại bản thân thì lâu ngày chúng ta sẽ quên chí xuất trần, rồi dính trở lại trong trần mà không biết. Như vậy, mỗi người phải thường tự kiểm hoặc khi được nhắc nhở sách tấn, phải ghi nhận và cố gắng tiến tu.

Ngài Động Sơn nói trong bài Quy Giới rất chí thiết: “Sa-môn Thích Tử thì phải lấy cái đức cao thượng làm đầu, đã dứt phan duyên nên theo đạm bạc, cắt ân ái với cha mẹ, bỏ lễ nghĩa về vua tôi, cắt tóc nhuộm áo, cầm khăn bưng bát đi vào nẻo tắt xuất trần, bước lên bậc thang nhập Thánh, trong trắng như sương, thanh tịnh tựa tuyết, rồng thần phải cung kính, ma quỷ quy hàng, vì thế phải chuyên tâm dụng ý báo đền ơn Phật”.

Sa-môn Thích tử là con dòng họ Thích, phải lấy đức cao thượng làm đầu không phải sống theo tình thế gian… Như vậy, đâu phải là tầm thường. Vì thế, phải giữ gìn giới hạnh trong như sương, sạch như tuyết. Có thế, rồng thần mới cung kính, ma quỷ sợ quy hàng.
Ngài nói nếu được như vậy thì “sinh thân của cha mẹ mới được phần lợi ích, chớ đâu được phép kết thác môn đồ, đua đòi bè bạn, giữ việc bút nghiên, trổ tài văn chương, cứ khư khư danh lợi, tất bật hối hả chạy theo trần tục mà chẳng nghĩ đến giới luật, phá hết oai nghi, để chuốc lấy sự thoải mái trong một đời, rồi phải đắng cay trong nhiều kiếp, uổng công mang danh Phật tử”.

Tổ nhắc chúng ta nếu muốn đền đáp được phần nào công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và ơn tái tạo giới thân huệ mạng của Phật Tổ thì phải nỗ lực. Nếu như chỉ lo kết môn đồ bè phái, trổ tài văn chương và ôm chặt danh lợi, tất bật chạy theo trần tục mất hết oai nghi giới luật. Như vậy, là chỉ bám lấy sự thoải mái trong đời này, mà quên mất sự đắng cay khổ đau trong nhiều kiếp.

Ngài nói người tu không khéo thì “uổng công mang danh Phật tử”. Chúng ta mang danh là Thích tử, là đệ tử Như Lai nhưng lại chưa hành đúng theo những gì Phật dạy, nên Ngài nhắc nhở. Do đó, người tu phải có chí xuất trần. Xuất trần tức là sống thanh tịnh, giải thoát, đáng cho người trời cung kính, quỷ thần nể phục, chớ đâu thể buông lung, lo hối hả chạy theo trần tục, quên mất đạo nghiệp giải thoát của chính mình. Điều đó thật đáng hổ thẹn.

Thiền sư Bạch Dương Thuận dạy chúng: “Nhiễm duyên dễ mắc, đạo nghiệp khó thành, chẳng hiểu trước mắt muôn duyên sai biệt. Chỉ thấy gió trong cõi trần ào ạt làm cho rừng công đức tiêu tàn, lửa tâm bừng bừng thiêu hết mầm móng bồ-đề. Nghĩ về đạo giống như nghĩ về tình thì hẳn thành Phật đã lâu rồi”.

Ngài nói những lời rất chí thiết. Duyên thế tục dễ nhiễm mắc còn đạo nghiệp thì khó thành. Bởi vì, ngoài đời chúng ta đã có thói quen đó dù nay ở trong đạo nhưng nhiều khi những duyên cũ rất dễ kéo lôi.

Ví dụ như học kinh học luật thì buồn chán nên học lâu thuộc, còn đọc chuyện tiểu thuyết lại thấy thích thú, đọc hoài không biết mệt. Khi nghe giảng kinh nhiều khi nghe quen rồi chán, nhưng khi coi phim kiếm hiệp thì xem không biết mỏi, dù không cố gắng nhớ mà vẫn huân, rõ ràng cái duyên nhiễm dễ mắc còn đạo nghiệp khó thành.

Do vì mới tỉnh ngộ nên đạo nghiệp chưa quen, tu khó thành. Dù chúng ta cố gắng công phu nhưng vẫn trầy trật lên xuống, muốn cho nó quen mà không được, còn cái kia không muốn mà nó cũng quen, nên nói là dễ mắc dễ nhiễm.

Lại nữa, trước mắt mỗi người nhiều duyên sai biệt, nhích một chút là nó dẫn đi liền. Chúng ta tu hành năm mười năm không khéo khi niệm bất giác khởi, gió trần thổi tiêu rừng công đức, có khi cởi áo ra đời. Còn khi lửa sân hận nổi lên đốt cháy mầm bồ-đề chính mình.

Câu sau Ngài nói thật chí thiết: “Nghĩ về đạo nếu giống như nghĩ về tình hẳn thành Phật đã lâu rồi”. Chúng ta phải nghiệm kỹ để khéo ứng dụng. Nếu như nghĩ về đạo mà được như nghĩ về tình thì thành Phật lâu lắm rồi. Nghĩ về tình, lôi kéo tâm ngày đêm, có khi không muốn nghĩ mà nó cũng nghĩ, không cần cố gắng mà nó cũng nghĩ.

Nhiều khi chúng ta lên bồ đoàn tọa thiền, lúc đó đáng lẽ phải nghĩ về đạo nhưng rồi tình cũng xen vào. Nếu nghĩ về đạo mà được như nghĩ về tình thì công phu thành tựu dễ dàng. Vì khi nghĩ về đạo thì quên trước quên sau lúc được lúc mất, còn nghĩ về tình thì không cần dụng công gì hết mà cũng thành sâu đậm.

Vì vậy, người tu phải khéo chuyển ngược trở lại, thay vì nghĩ về tình thì luôn nghĩ về đạo. Nếu chúng ta luôn nghĩ về đạo thì đâu có phiền não nhiều. Người hay phiền não thì biết là còn nghĩ nhiều về tình hơn là nghĩ về đạo, như nghĩ về đạo nhiều hơn thì đâu hay phiền não. Phải khéo chỉnh đốn, phải hổ thẹn để chuyển trở lại. Nếu không, lâu ngày tình mạnh hơn đạo sẽ dẫn chúng ta đi xuống. Một câu nói của người xưa, nhưng khi nghe rồi suy gẫm, thật là thấm thía.

Thời Tống, Thiền sư Từ Thọ ở Đông Kinh một hôm sau buổi tọa thiền dạy chúng: “Các ông nhất thiết phải xa danh và lợi lấy khổ nhọc làm vui, tâm danh lợi thế gian giảm xuống thì niệm đạo thanh tịnh tự nhiên tăng trưởng. Như Hoà Thượng Biển Đảm Sơn suốt đời ăn trái lịch để sống (trái rừng). Còn Đại sư Huyền Giác không ăn rau trồng, bởi trồng thì phải cuốc đất sợ tổn thương tiểu trùng, đồng thời kính trọng giọt mồ hôi khổ nhọc của người nông phu. Pháp sư Huệ Hưu ba mươi năm chỉ một đôi giày, gặp đất bằng thì đi chân đất. Các ông hiện tại y phục đầy đủ, thọ hưởng đủ thứ chưa đói đã ăn, chưa lạnh đã mặc thêm áo, chưa dơ đã tắm, chưa buồn đã ngủ. Như vậy thì đường sinh tử chưa thấu rõ, cấu nhiễm chưa trừ tận, hoặc chướng không đoạn lấy gì để tiêu của đàn na tín thí”.

Ngài dạy: Các ông phải lìa xa danh lợi…, chớ có lấy cái sung sướng thoải mái nhất thời làm vui, cần chịu khó, chịu khổ nhọc để tiến tu thì tâm danh lợi thế gian mới giảm xuống. Mà tâm thế gian giảm thì niệm đạo thanh tịnh tự nhiên được tăng trưởng.

Dẫn hạnh ngài Huyền Giác chỉ ăn rau rừng không ăn rau trồng tưới. Ngài nói trồng thì phải cuốc đất mà cuốc đất là làm chết tiểu trùng, tổn thương sinh mạng chúng sinh, thêm nhọc nhằn khổ công người trồng trọt. Khi đi qua chỗ gò, đất sỏi khó khăn thì Ngài mới mang giày, còn những nơi bằng phẳng thì Ngài cởi giày đi chân trần, cho nên ba mươi năm mà đôi giày chưa hư.

Chúng ta kiểm lại xem có được giống như vậy không? Đúng theo Luật thì ngày ăn một bữa, còn ngày nay có đàn na thí chủ cúng thức ăn dư sẵn, đôi khi hơi nhiều được phát về tăng đường, lâu lâu đi ra đi vô buồn bốc bỏ vào miệng một chút, như vậy không phải là chưa đói mà đã ăn hay sao? Cũng gọi là ăn phi thời. Còn chưa lạnh mà đã mặc thêm áo, chưa dơ đã tắm, chưa buồn ngủ đã ngủ. Ngài bảo người xưa tu hành miên mật, còn các ông hiện tại y phục đầy đủ, thọ hưởng cũng nhiều, chưa đói đã ăn rồi. Nếu mà như vậy thì đường sinh tử làm sao thấu rõ, cấu nhiễm cũng chưa trừ, não phiền chưa đoạn thì lấy gì mà tiêu của đàn na tín thí. Những lời nhắc nhở thật là chân thiết.

Lời Ngài nhắc có đúng với bệnh của chúng ta hiện nay không? Đối với chí nguyện xuất trần có khế hợp được gì? Xuất trần mà như vậy hay sao? Nói xuất trần mà có thực xuất hay chưa? Hay là mình xuất trần này rồi vào trần kia? Như vậy, chúng ta vẫn y như cũ, vẫn bụi bặm đầy mình, có thấy xấu hổ hay không?

Cho nên phải xem, quán trở lại chí nguyện xuất trần của mỗi người với sự thật trong cuộc sống hằng ngày như thế nào? Để rồi thúc liễm bản thân tiến tu.

Xuất trần là một ý nghĩa quan trọng, theo chúng ta trong suốt cuộc đời này, chứ không phải một ngày một bữa lúc có lúc không. Mà đúng ra thì không phải chỉ một đời này mà kéo dài nhiều đời khác nữa cho đến thành Phật thôi! Đó là ý nghĩa thứ nhất của xuất trần.

2. Sinh tử sự đại

Sinh tử là việc lớn, không phải là chuyện đùa chơi. Nhiều khi học lý nói: “ Ừ! Sinh tử như mộng” hoặc “sinh tử nhàn nhi dĩ”, tức sinh tử nhàn mà thôi! Tuy nói như vậy mà chúng ta chưa thật như vậy. Chúng ta phải biết lúc nào nên nói và lúc nào chưa nên nói. Chuyện này không phải là chuyện đùa chơi hoặc là chuyện lý luận trên miệng.

“Sinh tử là một việc lớn” Câu này không biết phát xuất từ đâu, nhưng đọc Kinh Pháp Bảo Đàn thì thấy khi Ngũ Tổ bảo môn đệ trình kệ thì Ngài có nhấn mạnh điểm này: “Ta nói cho các ông rõ đời người “sinh tử là việc lớn”, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền mà chẳng cầu ra khỏi biển khổ sinh tử. Nếu mà tự tánh đã mê thì phước điền đâu thể cứu được. Mỗi người hãy đi rồi tự xem lại trí tuệ chính mình, nhận lấy tánh Bát nhã ở nơi bản tâm mình, mỗi người hãy tự làm một bài kệ rồi trình cho ta xem. Nếu tỏ ngộ được đại ý thì ta sẽ truyền y pháp cho người ấy làm Tổ đời thứ sáu”.

Ngũ Tổ nhấn mạnh đời người sinh tử là việc lớn cần giải quyết cho xong chớ chỉ lo cầu phước điền. Đây là điểm cần phải nhớ, phải ý thức cho đậm. Phải nhớ “việc mình chưa sáng cũng như đưa đám tang cha mẹ”. Nghĩa là việc mình chưa sáng thì phải băn khoăn, khắc khoải, nôn nóng như đưa đám tang cha mẹ, chứ không nhàn nhã được. Đời người sinh tử là việc lớn, khi chưa giải quyết xong thì chưa thể nhàn nhã qua ngày, cũng như chưa thể yên tâm ăn ngủ. Do đó, người xưa khi chưa giải quyết được sinh tử thì quên ăn quên ngủ.

Việc này, tôi cũng có kinh nghiệm. Ngày trước, khi mới hạ thủ công phu thì tôi cũng như vậy. Khi cảm nhận được sự vô thường, sự chết bức bách kề bên, lúc đó có cái gì thúc đẩy ghê sợ lắm, tưởng chừng như không còn đủ thời gian để mà tu nữa. Đây, không phải chỉ hiểu lý vô thường theo kinh điển Phật dạy, mà đây là sự cảm nhận sâu trong lòng. Cho nên, hạ thủ công phu phải quyết chí, quên ăn quên ngủ, như Lục Tổ nói “giống như người ngơ ngơ”. Nhiều khi gặp bà con khách xa đến, liền ngó lơ đi không thèm chào hỏi. Nhờ vậy, qua thời gian dài thiết tha công phu, mới thực sự có kết quả chứ không phải dễ dàng.

Ở đây Tổ nhắc: Sinh tử là việc lớn phải có sự thức tỉnh nơi mình. Có khi nhìn các vị cứ lo ngủ gà ngủ gật, bàn ăn bàn uống món này món kia thì thấy run sợ, vì lơ là cái chuyện lớn của mình đi. Phật dạy: “Sinh tử giống như ngục tù”. Ngục tù sinh tử này đã nhốt chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay. Xét kỹ thật đáng sợ chứ không phải tầm thường. Nếu chỉ nói trên lý “sinh tử như mộng”. Như mộng khi nào mình đã thấu suốt được nó. Cho nên, quán kỹ lại mỗi một lần sinh tử là một lần chồng thêm cái mê cách ấm cho mình, qua một lần sinh tử thì quên một lớp, qua một lần nữa thì quên một lớp nữa.

Như vậy qua một lần sinh tử thì thêm một lớp quên, rồi càng tạo nghiệp sâu thêm, có khi quên mất gốc. Có những người chừng hai mươi hai mấy tuổi sớm phát tâm xuất gia vào chùa, nhưng do sinh vào gia đình tạo nghiệp sát sinh như lưới cá v.v..,thì lúc nhỏ ở gia đình người này cũng đã tạo thêm nghiệp.

Quán kỹ rồi thấy sợ. Hôm nay chúng ta ngồi chung ở đây, ngày mai bỏ thân này rồi đi đâu? Không biết có còn xuất gia tu hành, còn được nhắc nhở nhau tiến tu như vầy nữa hay không? Vì vậy, Quốc Sư Vô Nghiệp có dạy: “Lúc lâm chung mà còn một mảy tình phàm lượng thánh chưa sạch, một chút bụi tư niệm chưa quên thì theo niệm thọ sanh. Năm ấm nặng nhẹ gá vào thai lừa bụng ngựa cho đến chốn địa ngục. Một phen vào lò lửa vạc sôi thì những điều ghi nhớ nghĩ tưởng, kiến giải trí tuệ từ trước nhất thời đều mất hết, rồi y như trước trở lại làm thân con muỗi con kiến.”

Ngài dạy đến lúc lâm chung mà tình phàm lượng thánh chưa hết, vẫn còn chút mảy bụi tư niệm chưa quên thì liền theo niệm đó mà thọ sanh. Ví dụ như lúc chúng ta sắp chết mà còn nhớ tiếc một cái gì đó thì nguy, hoặc lúc đó mà còn một chút niệm bực tức thì liền theo đó mà thọ sanh. Rồi theo năm ấm nặng nhẹ mà đi vào các đường thọ sanh. Nặng thì vào thai lừa bụng ngựa hoặc vào chốn địa ngục dầu sôi… Lúc đó, quên hết những điều ghi nhớ, những kiến giải trí tuệ từ trước, lý thiền lý đạo, thảy đều mất hết. Lúc đó không thể tự nói “Tự tánh của ta vốn thanh tịnh, địa ngục giống như là mộng” mà chỉ nhớ cái khổ thôi! Rồi y như trước làm thân con muỗi, con kiến.

Chúng ta buông lung thân tâm, tu không khéo một phen đi lạc vào đó rồi thì nguy hiểm. Đây không phải nói để hù dọa mà đó là lẽ thật. Trong kinh Pháp Cú có câu chuyện: Lúc đức Phật ở tinh xá Kỳ Viên, ngài dạy các Tỳ kheo phải luôn tinh tấn tu tập đạo nghiệp để dứt trừ mê mờ, giải thoát các khổ. Có vị Tỳ kheo tâm trí không được thông suốt, cả ngày ăn xong rồi vào phòng đóng cửa nằm ngủ, chỉ quý cái thân huyễn mà không lo tu. Vì không biết mình chỉ sống được bảy ngày nữa thôi. Phật biết sau khi chết ông sẽ đọa vào đường dữ nên thương xót, mới đi đến phòng lúc ông còn đang ngủ, Ngài gõ cửa đọc bốn bài kệ để cảnh tỉnh:

Bài thứ nhất

Ôi! hãy dậy đừng mê
Loài rận ốc trai mọt.
Ẩn mình trong bất tịnh
Mê hoặc chấp làm thân.

Phật cảnh tỉnh: Hãy dậy đừng có mê, giống như loài rận loài trai loài mọt sống trong bóng tối. Con rận sống trong quần áo của người, trong bóng tối. Con trai nó khép hai cái vỏ vào cũng là sống trong bóng tối, loài mối mọt cũng vậy. Chúng đều ẩn mình trong bất tịnh.

Bài thứ hai

Đâu có bị chém thương
Mà tâm như trẻ bệnh.
Đối trước bao ách nạn
Lại tham đắm ngủ nghê.

Tức là, đâu phải người bị chém bị thương tật gì, mà tâm như đứa trẻ bị bệnh cứ lo ngủ.

Bài thứ ba

Biết nghĩ không buông lung
Lo học đạo từ bi.
Do đó không ưu sầu
Thường nhớ trừ vọng tưởng.

Đây là đánh thức. Người mà khéo biết nghĩ thì không có buông lung, lo học đạo, do đó mà không có ưu sầu.

Bài thứ tư

Chánh kiến luôn trau dồi
Là ánh sáng giữa đời.
Sinh ra phước đầy đủ
Chết không đọa ác đạo.

Khi ấy, Tỳ kheo đang ngủ nghe bài kệ giật mình thức dậy, trông thấy Phật trước cửa hoảng sợ đứng dậy đảnh lễ. Phật mới hỏi: -Ông có biết kiếp trước của ông là gì không?

Vị Tỳ kheo thưa :

-Dạ! Bạch Thế Tôn con vì ấm cái (ấm là năm ấm, cái là ngũ cái) nó che ngăn đâu thể biết được.

Phật bảo :

- Vào thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, ông đã từng xuất gia nhưng vì tham lợi dưỡng, lo ngủ nghỉ, cung phụng cái thân huyễn này chẳng chịu tu hành, không nhớ lẽ vô thường. Khi chết, đọa làm loài rận năm chục ngàn năm, kế đó sinh vào loài trai loài sò và sâu mọt ở trong cây, mỗi loài cũng năm chục ngàn năm. Bốn loài này nó đều sinh trưởng trong bóng tối, nó thích chỗ kín đáo tối tăm lấy đó làm nhà, không thích ánh sáng giống như là mê ngủ thích chỗ tối tăm. Quý vị nghĩ nếu chúng ta đọa với khoảng thời gian như vậy thì sao? Năm chục ngàn năm mỗi loại như vậy, đến lúc thoát ra thì chỉ thích bóng tối. Ông nhờ hết nghiệp sinh làm người, được làm Sa-môn thì sao không biết nhàm chán lại ham ngủ?

Khi ấy, vị Tỳ kheo này nhờ uy lực của Phật nhớ lại đời trước của mình. Bây giờ có ai trong đây nhớ lại đời trước của mình chừng năm đời đã từng làm trâu làm heo thì chắc tu tiến lắm. Còn ở đây, nương oai lực của Phật vị Tỳ-kheo nhớ mình năm chục ngàn năm làm rận, năm chục ngàn năm làm trai sò sâu mọt nên vị Tỳ kheo ấy quá hoảng sợ. Ông hổ thẹn sợ hãi tự trách mình và nỗ lực quán xét tu hành nhờ vậy mà ngay hiện đời trừ sạch ngũ cái, chứng A-la-hán.

Đó là một bài pháp rất chí thiết với chúng ta.

Thân này là thân huyễn, vậy mà cứ nuôi dưỡng cưng chìu cung phụng cho nó. Lo cho nó ngủ tức là cưng chìu nó chứ gì? Rồi cho nó ăn uống, nó đòi hỏi ăn uống thế này thế kia, tức là cung phụng cho nó. Nhưng mà nó là cái thân huyễn, cuối cùng vì nó mà chúng ta bị sa đọa thì thật là đau đớn. Cho nên, tu đạo giác ngộ là phải đi đến chỗ sáng, không đi vào chỗ tối. Vậy sao có người vẫn thích ở trong bóng tối? Đó là kiểm để nhắc nhở tất cả đừng lo cưng chiều cái thân huyễn, dung dưỡng nó mà không lo tu hành để thành tựu chí xuất trần của mình.

Khi nghĩ đến con đường sinh tử, chúng ta không thể nào xem thường mà sinh tâm tự mãn. Hiện tại chúng ta đang mở mắt tỉnh táo hoàn toàn đây, mà đối với tình phàm vẫn chưa làm chủ được, thì khi bệnh hoạn đau yếu nghị lực nó cũng yếu theo, lúc nhắm mắt sẽ ra sao? Ít ai chịu nghĩ đến điều này. Điều mà tất cả chúng ta rồi cũng sẽ đi tới!!!

Thiền sư Đại Huệ từng bảo: “Như tôi lúc mà chưa ngủ thì những điều Phật dạy, những điều Phật ngợi khen tôi y theo đó mà làm. Điều Phật quở trách thì chẳng dám vi phạm. Trước kia y chỉ theo thầy tự thực hiện công phu được chút sở đắc thì lúc tỉnh thức đều được thọ dụng. Nhưng mà đến lúc lên giường mơ màng nửa thức nửa ngủ thì làm chủ tể không được. Mộng thấy vàng bạc thì mừng rỡ vô hạn, mộng thấy người dùng dao gậy bức hiếp và các cảnh giới dữ dằn thì thấy sợ hãi kinh hoàng. Tôi tự nghĩ thân này hãy còn chỉ có ngủ mà làm chủ không được, huống là đất nước gió lửa phân tán, các thứ khổ bừng dậy thì làm sao chẳng bị lôi kéo. Nghĩ đến đây mới bắt đầu lo lắng.”

Chính ngài Đại Huệ mà còn than, lúc tỉnh thức thì được thọ dụng, nhưng khi lên giường ngủ mơ mơ màng màng thì làm chủ không được. Ngài Đại Huệ tự thực hiện công phu có chút sở đắc còn như vậy, chúng ta có như vậy không? Thật chưa có công phu gì? Vậy thì khi sắp chết, lúc mà đất nước gió lửa phân tán, các thứ khổ nó kéo nhau tới thì chúng ta sẽ ra sao? Nghĩ đến đó rồi mới thấy lo lắng.

Cho nên, mỗi người chúng ta phải tự xét lại xem có đáng lo sợ hay không? Trong lúc tỉnh táo có ai làm chủ thực sự chưa? Đó là chưa nói đến lúc ngủ. Nếu chưa được vậy thì đâu tránh khỏi bị sinh tử dẫn đi. Rồi chí xuất trần của chúng ta có bảo đảm thẳng đường mà đi không? Hay chỉ ngày qua ngày vẫn thấy bình thường không lo tu hành.

Tổ Xà Dạ Đa ở Ấn Độ thuật lại: “Ngài đã năm trăm đời làm chó, chỉ có hai lần được ăn no mà lại bị nạn, bị chặt đầu”. Thật đáng sợ. Cũng như ngài An Thế Cao độ sư huynh. Vị sư huynh là người thông suốt kinh điển nhưng tâm hay sân hận. Đi khất thực mà gặp thí chủ nào cúng dường không vừa ý thì nổi giận. Ngài An Thế Cao khuyên hoài không được. Nên nói : Ông hãy cố gắng nếu không về sau sẽ đi đường xấu. Quả thật sau vị sư huynh chết làm thần miếu ở Cung Đình Hồ tại Trung Hoa. Tuy là thần miếu nhưng thân là đại mãng xà. Ngài An Thế Cao nhớ tình đồng đạo, nên đến độ thoát cho.

Vì vậy, mỗi lần nghĩ đến kiếp luân hồi này, rồi kiểm lại đời tu của mình chưa có công phu gì đáng kể, đạo nhãn cũng chưa sáng thì quảû bất an vô cùng, chứ không phải dễ!

Trong bài Tiểu Tham của Thiền sư Ỷ Ngộ ở Pháp Xương, dạy : “ Nghiệp thức mênh mông không gốc có thể tựa, ăn năn lại chẳng kịp. Thọ báo theo duyên thay đầu đổi mặt đều chưa thể định được. Đâu chẳng thấy các bậc Bồ-tát học Bát-nhã ngày trước chớ có tự lừa dối chính mình phải rất cẩn thận, còn một mảy may chẳng hết là chưa thoát khỏi luân hồi. Một chút tình niệm chưa quên đều theo đó mà chìm đắm. Ông muốn biết loài mang lông đội sừng chăng? Chính là ông lúc bình thường làm chủ tể tầm bậy. Còn ông muốn biết địa ngục rút lưỡi không? Chính là lừa dối trong đường mê. Ông muốn biết băng lạnh vạc dầu sôi ư? Chính là ông lạm dụng của tín thí. Ba đường dữ tám nạn khổ đều là tự tâm ông làm ra hết. Chỉ vì con mắt đạo chưa sáng mới thành ra như vậy!”

Tức là nghiệp thức mênh mông không bờ mé, nếu chúng ta tu không khéo trôi theo nó thì ăn năn không kịp. Rồi theo duyên thọ sanh, lúc đó thay đầu đổi mặt, bây giờ mang thân này nhưng không biết qua đời sau mang thân nào? Đừng nghĩ loài mang lông đội sừng nó ở đâu xa, chính là chúng ta lúc bình thường làm chủ tể sai lầm, hành động sai lầm nên không khéo đi vào các loài đó. Nếu lúc ra đi còn một tình niệm chưa quên bị nó dẫn đi, đến lúc đó thì không thể nói lý, không thể nói sinh tử như mộng hoặc tự tánh Niết-bàn. Trong khi chúng ta hiện nay tình niệm còn nhiều, nghiệp thức còn khá mà không lo tận tâm tinh tấn để công phu thì sẽ đi đến đâu? Rồi ý nghĩa xuất trần nó sẽ được thành tựu ra sao? Đó là điều mà tất cả chúng ta đều phải kiểm lại. Cho nên chúng ta phải quán kỹ, nhớ kỹ việc sinh tử là việc lớn chứ không phải là chuyện tầm thường.

3. Thệ nguyện giải quyết cho xong việc sinh tử.

Chúng ta đã biết rõ ý nghĩa xuất trần, nỗi khổ của kiếp sinh tử, sự trói buộc của đám trần lao hệ lụy này rồi, thì chúng ta không thể tu lừng chừng cho qua ngày tháng. Chúng ta không thể sinh tâm buông lung, dễ duôi để phước ngày càng tổn, càng mỏng dần. Nên nhớ rằng: Chớù có xem thường việc nhỏ. Một ngày mình buông lung một chút là nó tổn phước một chút, cộng lại nhiều lần thì phước tổn sâu. Khi tổn phước rồi sẽ ảnh hưởng đến công phu tiến đạo, đến đạo tâm của mình. Cho nên ý thức được trách nhiệm bổn phận, ngay đây chúng ta phải phát tâm mạnh mẽ thề giải quyết xong vấn đề sinh tử này, chứ không thể dễ duôi được.

Người xưa có câu : “Đời này chẳng thẳng đời này độ, còn đợi đời nào mới độ thân”. Nghĩa là ngay đây không chịu độ mà còn hẹn chờ đợi đến đời nào nữa. Đợi đến đời sau thì đời sau ai vào đó để độ? Cũng là mình thôi chứ đâu ai vào đó độ thay cho mình, vậy thì tại sao ngay đây không độ liền đi? Khỏi phải tốn thời gian thêm nữa. Trong khi qua một thời gian thì nó tạo thêm nghiệp mới nữa. Ngay đây độ liền có phải là bớt ít thời gian hơn không? Nếu còn hẹn đời sau, chính là tạo cơ duyên cho tâm giải đãi. Khéo là phải ngay đây bắt tay vào liền chứ không có đợi chờ.

Hoà Thượng Thủy Am dạy chúng: “Xưa các ngài Đại Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền, Long Nha kết bạn với nhau để cùng đến tham vấn ngài Phần Dương. Tức là ngài Phần Dương Thiện Chiêu, ngài ở vùng đất Hà Đông, nơi đó rất lạnh. Một số người ở đó chịu không nổi bỏ đi, chỉ có ngài Từ Minh là người có chí học đạo ngày đêm không lười mỏi. Ban đêm ngồi thiền buồn ngủ ngài bèn lấy cái dùi tự đâm vào thân và than rằng: Cổ nhân vì việc lớn sinh tử mà không ăn không ngủ còn ta là hạng người nào mà dám phóng túng buông lung. Lúc sống thì vô ích lúc chết không để tiếng tăm về sau. Ấy là tự bỏ mình vậy.”

Ngài Từ Minh tự nhắc mình, người xưa vì việc lớn sinh tử là như vậy đó. Cho nên, đâu thể hèn yếu so đo tính toán chần chừ để nuôi lớn tâm sinh tử thêm. Xưa các ngài chỉ một đao mà chặt đứt không ngó lại, phải dũng mãnh như vậy để mà tiến tới. Chính trong bản Thanh Quy của Thiền viện, Hòa Thượng cũng khẳng định điều đó :

Thứ nhất là tính dứt khoát. Dứt khoát tức là đời ra đời đạo ra đạo, tu phải đến nơi đến chốn, không có thái độ lưng chừng mà phải quyết tu đến sáng đạo, phải dứt khoát như vậy.

Thứ hai là tính kiên quyết. Dù khó khăn chướng ngại do ngoại cảnh hay bản thân tạo ra đều khẳng định vượt qua, kiên quyết thực hiện kỳ được giải thoát viên mãn mới thôi. Không đổ thừa là tại ngoại cảnh làm cho khó tu rồi chuyển đổi thoái tâm, hoặc do bệnh hoạn gì đó hay do cái gì trở ngại, đều khẳng định vượt qua hết, phải tu đến giải thoát viên mãn mới được, kiên quyết dứt khoát.

Ngài Hám Sơn cũng từng nhắc nhở: “May thay trong kiếp này nhờ sự trợ giúp và chỉ dạy của Chân sư, hạt giống Bát-nhã ở trong chư vị có cơ tăng trưởng. Nhờ thế lòng mộ đạo và quả quyết của chư vị được thức tỉnh, nhưng chư vị phải nhận thức rằng không dễ gì nhổ được, lấp được các gốc rễ luân hồi đã ăn sâu trong chư vị từ thời vô thủy. Công việc này không phải là tầm thường, chỉ có những người có ý chí và sức mạnh, đủ can đảm để mà đảm đương cái gánh nặng như vậy. Và dấn thân tới trước không chút do dự hay rụt rè thì mới vào được đạo.”

Tức là chúng ta cũng còn có duyên tốt trong kiếp này, nhờ được các bậc Chân sư nhắc nhở đánh thức cho nên hạt giống Bát-nhã trong tâm mới có cơ hội nẩy mầm, tăng trưởng nhưng không phải ngay đó sạch hết các gốc luân hồi. Vì gốc luân hồi đã ăn sâu từ vô thủy rồi không phải một lúc mà sạch hết. Phải là những người có sức mạnh và ý chí can đảm, sẵn sàng dấn thân tới trước mới mong vào được đạo, nào phải việc tầm thường.

Qua đó, chúng ta mới thấy chư Tổ đều như nhau, luôn luôn thúc đẩy người tu phải có sự quyết tâm mạnh mẽ để tinh tiến vượt lên, chứ không thể lừng chừng hẹn nay hẹn mai. Chúng ta mê lầm huân tập từ vô thủy kiếp cho đến ngày nay, đâu thể một ngày hai ngày mà dứt trừ được. Tuy nay chúng ta cũng có được cái duyên tốt, được thầy bạn tốt nhắc nhở đánh thức hạt giống Bát-nhã trong tâm, để có cơ hội phát khởi tăng trưởng, nhưng những nghiệp tập nó đâu có một lần mà hết được. Thỉnh thoảng nó sống dậy, do đó chúng ta phải có một ý chí sức mạnh vươn lên, sẵn sàng tiến tới chứ không thể ỷ lại, không thể chần chờ. Phải có sự quyết tâm thề nguyện giải quyết xong việc lớn sinh tử, không phải vào chùa an nhàn chỉ một thời sám hối hai thời ngồi thiền vậy là đủ trả nợ. Mà chúng ta phải giải quyết xong việc lớn sinh tử này, phải sáng tỏ được đạo, chứ không phải chỉ bấy nhiêu đó đủ rồi.

4. Chỉ thằng trở về nguồn tâm

Trước kia chúng ta vốn từ tâm mê mà tạo nghiệp vào sinh tử, thì ngày nay cũng phải từ tâm mà giải quyết sinh tử chứ không con đường nào khác. Chúng ta theo dòng tâm chạy ra ngoài đuổi theo duyên trần, theo cảnh là quên mất cội nguồn chân thật nơi mình, đó là đi vào sinh tử luân hồi là theo chiều mê, nhà thiền gọi là mất trâu. Tức theo duyên theo cảnh rồi quên mất trâu. Từ một niệm bất giác ban đầu đến nay, chúng ta đã đi theo con đường sinh tử mê lầm chịu nổi chìm, lên xuống ở trong biển sinh tử trầm luân quá lâu. Nếu kiểm lại thấy thật là khủng khiếp chứ không phải thường. Có khi chúng ta nổi lên một lúc rồi chìm xuống, cứ lẩn quẩn trong đó kiểm lại thấy rất đáng sợ.

Nay chúng ta được duyên tốt, phải mau tỉnh ngộ trở về. Tuy gọi là mất trâu quên gốc nhưng mà sự thật dấu vết nó vẫn còn. Nghĩa là chúng ta vẫn còn có thấy có biết, còn có thấy biết tức là vẫn còn có tâm, như vậy dấu vết vẫn còn đó. Chúng ta khéo theo dòng thấy biết này để trở về, trước kia theo dòng thấy biết này chạy theo duyên ra ngoài, đi vào sinh tử quên gốc; Bây giờ cũng theo cái dòng thấy biết này quên duyên để đi ngược trở lại cội nguồn, ra khỏi trần lao sinh tử.

Một hôm trời đang mưa, Thiền sư Cảnh Thanh hỏi vị tăng :

- Bên ngoài là tiếng gì?

Vị tăng thưa:

- Tiếng mưa rơi.

Ngài bảo:

- Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật.

Vị tăng thưa:

- Còn Hoà Thượng thì thế nào?

Ngài bảo:

- Vẫn chẳng quên mình.

Theo như chúng ta cũng sẽ đáp như vậy. Hỏi tiếng gì? Đang mưa thì đáp tiếng mưa rơi. Nhưng bị ngài quở ngay: Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật.

Chỉ một chút thôi mà xem như hai khung trời cách nhau rất xa. Cũng một chút đó mà chuyển đổi cả một chuỗi dài vô lượng kiếp lầm mê. Cũng ngay cái mê lầm này mà chúng ta nghe theo tiếng, tức quên mất mình. Khi hỏi tiếng gì? Chỉ nghe tiếng mưa rơi thôi, quên mất chính mình ở đây, quên sự hiện hữu đang nghe rõ ràng vì chỉ nhớ cái tiếng, đó gọi là theo trần, lang thang ở quê người là vào luân hồi.

Thiền sư Cảnh Thanh cũng nghe nhưng khi nghe chẳng quên mình, không chạy theo tiếng mưa rơi vẫn có mặt sự hiện hữu sáng ngời đó. Nghe mà vẫn nguyên vẹn là nghe, đó gọi là trở về nguồn tâm. Ngay đó chúng ta hiện ở quê nhà, còn nhớ theo tiếng thì ở quê người. Cho nên hàng tỉ tỉ kiếp đến nay, chúng ta mới nghe được cái điều kỳ diệu này đâu phải là việc dễ dàng. Nghe được điều này là một nhân duyên hy hữu với mình chứ không phải tầm thường. Nếu không nghe được những điều này thì chúng ta chỉ nghe những điều ở thế gian thôi. Tức là ở đời cứ nghe những chuyện theo duyên theo cảnh, chứ không bao giờ nghe được cái chuyện trở về này. Cho nên chúng ta phải thật sự để tâm xét kỹ, gọi là trăm kiếp ngàn đời không dễ gì gặp. Phải khéo quán để trở về. Tất cả ai đều cũng có đủ cơ hội để trở về chứ không thiếu.

Cũng ý nghĩa này, Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn, nhân một đêm có vị tăng đi vào thất của Sư, Sư hỏi:

-Ai ?

Vị tăng im lặng không đáp.

Sư bảo:

-Ta đã biết được ngươi rồi. Ngay đó ông tăng cười. Sư liền bảo:

- Lại đâu phải người nào khác (tức đã lộ ra rồi). Rồi Sư nói bài kệ :

Khinh khinh đạp địa khủng nhân tri
Ngữ tiếu phân minh cánh mạc nghi.
Tri giả chỉ kim mãnh đề thủ.
Mạc đãi thiên minh thất khước kê.

Dịch

Bước chân nhè nhẹ ngại người hay.
Cười nói rõ ràng có gì nghi.
Kẻ trí hiện nay gắng gìn giữ
Chớ đợi sáng mai gà mất đi.

Nghĩa là, bước chân nhè nhẹ sợ người ta hay nhưng mà ông cười nói rõ ràng là đã lộ ra rồi có gì đâu mà nghi. Ngay đó đã lộ bày cái mặt thật của ông, bản lai diện mục của ông trong đó chứ không đâu xa. Người trí ngay đó nhận liền, còn chần chờ để cho tình thức chen vào là mất mình. Ngay bước chân đây, ngay chỗ nói cười đó là cái gốc xưa đã hiển lộ ra, đâu có gì giấu diếm. Khéo thì ngay đó nhận ra nó là xong. Ai cũng đều có cơ hội để trở về hết. Còn chần chừ suy nghĩ rồi so đo hoặc tính toán là mất ngay, tức là lúc đó để tình thức chen vào. Ngay đó cũng là quê nhà mà ngay đó cũng là xứ người. Chỉ một chút xíu đó thôi mà nó cách biệt rất là xa. Ngay cái nghe đó mà chỉ nhớ theo tiếng, theo duyên là ở xứ người, ngay cái nghe đó mà vẫn chẳng quên mình, nghe vẫn nghe rõ ràng nhưng không có theo duyên theo tiếng, vẫn rõ ràng hiện hữu thì đó là quê nhà. Chỉ cần khéo một cái chuyển là xong. Con đường trở về là như vậy.

Chúng ta đầy đủ nhân duyên với nhau, cùng gặp gỡ trong một pháp hội, được nghe được nhắc những lẽ thật này thì quả là nhân duyên hy hữu trong đời mình, hay nói rõ hơn là trong kiếp luân hồi này.

Bởi vì, chúng ta còn nghe được chỗ để trở về, chứ không phải nghe để đi vào luân hồi. Nếu không khéo chuyển để trở về thì thật là đáng buồn đáng tiếc. Đây đã chỉ hết tình với nhau rồi, đâu có giấu diếm gì. Đâu phải như ngoài đời là còn phải giấu nghề sợ người ta hay hơn, rồi bội phản mình. Còn trong đạo thì không có chuyện đó. Có gì là chỉ hết để rồi tất cả chúng ta cùng sống cùng trở về lẽ thật, cùng giải thoát để gặp nhau trong ánh sáng chân thật, đó là niềm vui lớn nhất.

Như vậy bậc tu hành giải thoát thì ai cũng đều có chí xuất trần. Có chí xuất trần mới đi tu, mà tu là tu hạnh giải thoát. Đây là sức mạnh để chúng ta vươn lên từ trong trần lao. Trong thế tục mà chúng ta vươn lên, trong bùn lầy của thế gian mà vọt ra, thì đâu có yếu ớt cũng không phải là tầm thường.

Dù thế nào thì chúng ta cũng phải nhớ đến chí nguyện này, trong mọi hành động mọi cử chỉ mọi ý nghĩ đều phải nhớ đến chí nguyện xuất trần. Làm gì chúng ta cũng phải nhớ đến chỗ đó chứ không để lơ lỏng xen hở. Ý nghĩa xuất trần phải luôn sát bên mình trong suốt cuộc đời này, không những suốt cuộc đời này mà trong suốt các kiếp sinh tử còn lại của mình cho đến khi viên mãn, phải vậy mới được. Giữ sao cho ngày trước mình nghĩ đến cái tình như thế nào, thì bây giờ đây mình nghĩ đến đạo cũng như thế đó. Phải thực hiện cho kỳ được cái chí nguyện này ngay trong cuộc sống. Đó là việc bổn phận của mỗi người chúng ta, không ai thay thế cho mình cả cũng không chờ đợi ai được. Phải quyết tâm như vậy, không để phải hổ thẹn với cái chí xuất trần mà chúng ta đã có.

Hoà Thượng Thiên Như có dạy một đoạn: “Thời gần đây có một hạng xuất gia tuy nói là lìa tục mà thói tục chẳng trừ. Trọn nói xuất trần mà duyên trần chẳng cắt đứt. Kinh giáo vốn không rõ biết, tham thiền lại chẳng nhận hiểu, tâm vượn chạy mãi, ý ngựa ruổi rong thành bầy thành đội ồn ào cả ngày. Chẳng những luống hao của tín thí cũng là chôn vùi tính linh chính mình. Đến khi nhắm mắt đường trước chẳng biết đi đâu, thật là uổng vào nơi cửa không, sống đã vô ích chết lại lạc loài”.

Tu xuất trần mà như vậy sao? Kinh thì không thông suốt, tham thiền cũng chẳng có hiểu rõ, cứ để tâm vượn ý ngựa nó chạy thành bầy thành đội ồn ào cả ngày. Thấy đau buồn không? Nói lìa tục xuất trần mà chưa có xuất gì hết, có khi còn dây dưa trở lại để rồi chôn vùi cái tính linh của mình. Cho nên Sư bảo đến khi nhắm mắt đường trước chẳng biết đi đâu. Thật là uổng vào cửa KHÔNG, tức là vào cửa giải thoát. Nên Sư mới nói “ sống đã vô ích chết lại lạc loài “. Sống vô ích không có công phu, chết lạc loài bơ vơ. Như vậy có buồn không? Chúng ta nghe nhắc như vậy rồi phải kiểm lại để mà thúc đẩy mình tiến tu đạo nghiệp, thế mới xứng đáng là người có tâm cầu đạo giải thoát.

Mong rằng, chúng ta không phải là người như thế. Mà tất cả chúng ta đều sẽ là những người thành tựu được bản nguyện giải thoát của mình và cùng vui với niềm vui xuất trần. Đó là điều mong mỏi của tất cả chúng ta khi phát chí nguyện xuất trần, vượt khỏi trần lao nguyện làm người Thượng Sĩ.

Nguồn: thuongchieu.net
Previous Post
Next Post