Chúng ta cần hiểu về cái Chết để
biết Sống, ngược lại ta phải thông suốt về sự Sống, để hiểu về cái Chết. Chết
không phải là sự cáo chung của cuộc đời, nó là sự gián đoạn của một dòng chảy. Cái
Chết giống như là một bến đổ, một trạm dừng, một nơi chúng ta xuống tàu để
chuẩn bị cho một chuyến đi khác.
Nói thế không phải để làm giảm ý
nghĩa của vấn đề Sinh Tử. Chúng ta đã sống như thế nào, nói cách khác đi là sự
chọn lựa chuyến tàu để chúng ta bước chân lên, sẽ quyết định tâm trạng của
chúng ta khi tới bến, sẽ sửa sọan cho chuyến đi sắp tới của chúng ta. Chúng ta
có thể đã chọn một con tàu rụt rặt, nhơ nhuốc, hay một con tàu bóng loáng. Có
thể chúng ta đã chọn một chuyến tàu đầy thú vui, cám dổ, với các cô gái nhảy, các
trò chơi, với bao mời mọc của tiến tài và danh vọng. Chúng ta sẽ đau khổ biết
bao khi phải rời chuyến tàu đó nếu như chúng ta đã bị dính mắc vào các thú vui
hưởng thụ xác thịt. Mặt khác có thể chúng ta đã chọn một chuyến tàu chở ta qua
bao nhiêu cảnh thiên nhiên đẹp đẽ bên đường, một chuyến tàu mà khi đổ bến, chúng
ta khoan khoái đứng dậy từ giã nó không quyến luyến.
Đừng dính mắc
Chỉ có thân xác chúng ta bị hủy
hoại, cái áo che cho Tâm thức chúng ta khi sống ở đời. Tâm thức ta không hề bị
hủy hoại.
Làm sao không buồn khi ta phải
mất đi những gì chúng ta yêu thích ở cõi đời. Khi người thân ta mất, hãy thương
xót, nhưng đừng để sự khổ đau về mất mát kéo dài đến phủ lất cuộc đời ta. Quá đau
khổ là u mê. Vì sự mất mát, cái chết là điều không thể tránh khỏi. Vì thế, ở
nhiều tôn giáo, nhiều tập quán văn hóa đã đề ra thời gian dành cho tang chế. Thí
dụ, người Do thái tỏ lòng thương tiếc người chết bằng cách ở trong nhà suốt 7
ngày, họ không ra đường trừ khi khẩn cấp. Họ không cạo râu, không cắt tóc hay
mặc đồ mới. Họ còn không được ngồi trên ghế hay mang giày. Trong 7 ngày này, họ
chiêm nghiệm về nỗi đau khổ của mình.
Chúng ta đau khổ vì sự ra đi của
người thân và sợ cho chính cái Chết của mình. Kiếp con người là một vòng tròn
của đến và đi, của Sinh và Tử. Sự mất mát thân xác không phải là tất cả. Tâm
vẫn tồn tại, vì thế đau khổ kéo dài quá hạn định là u mê.
Nếu con người quá coi trọng những
mất mát, thì cái Chết là một nỗi ám ảnh lớn lao, khủng khiếp của họ. Với họ, cái
Chết là sự tận cùng của tất cả. Là nỗi khổ đau khôn tả. Nhưng nếu chúng ta biết
buông bỏ những gì đã qua, đã mất dầu đó là của cải vật chất, hay thân bằng, quyến
thuộc, và chỉ chú trọng vào sự trường tồn của Tâm thức thì cái Chết không còn đáng
sợ nữa. Đó chỉ là một ngã rẽ, một sự thay áo. Hãy thương xót, nhưng chớ kéo dài
quá lâu nỗi đau khổ. Lời khuyên này có thể áp dụng cho tất cả mọi thứ mất mát
khác: tình yêu, hạnh phúc gia đình, công việc làm, bạn bè, nhà cửa. . . Hãy đau
khổ, nhưng rồi bước tới.
Sợ chết, nổi đau khổ vì chết chóc
gây ra do ta bám víu vào những thứ bên ngoài chúng ta như thân xác, danh vọng. Ta
luôn tìm cách chiếm đoạt của cải, tình cảm. . . trong đời như một cách để phủ
nhận cái Chết, để trốn tránh phải đối mặt với thực tại là cuộc đời này chỉ tạm
bợ. Sự dính mắc, cái ý nghỉ là chúng ta không thể sống thiếu những thứ đó càng
làm cho cái Chết trở nên thêm khủng khiếp. Trong khi tính cách vô thường sẳn có
trong mọi vật, trong mọi tương quan tình cảm càng làm cho sự thay đổi, mất mát
là điều không thể tránh khỏi. Sự thay đổi, sự hủy hoại, mất mát. . . không làm
con người thức tỉnh, trái lại còn làm họ thêm sợ. Họ sợ sự mất mát của thân xác,
tư tưởng, của cải, tương quan tình cảm.
Chìa khóa để giải thoát khỏi
những khổ đau này là buông bỏ mọi dính mắc.
Tứ đế của Đức Phật đã dạy chú
khủng khiếp. Trong khi tính cách vô thường sẳn có trong mọi vật, trong mọi
tương quan tình cảm càng làm cho sự thay đổi, mất mát là điều không thể tránh
khỏi. Sự thay đổi, sự hủy hoại, mất mát. . . không làm con người thức tỉnh, trái
lại còn làm họ thêm sợ. Họ sợ sự mất mát của thân xác, tư tưởng, của cải, tương
quan tình cảm.
Chìa khóa để giải thoát khỏi
những khổ đau này là buông bỏ mọi dính mắc.
Tứ đế của Đức Phật đã dạy chú chúng
ta đau khổ, lòng ham muốn khiến chúng ta sợ hãi, “người không ham muốn sẽ không
đau khổ, bớt sợ hãi", Phật nói.
Bám Víu Vào Ngoại Cảnh
Từ khi còn nhỏ, chúng ta đã được
huân tập là Hạnh phúc được đo lường bằng những của cải, tương quan tình cảm ta
có thể chiếm hữu được. Nên khi vật chất bị đánh mất, liên hệ tình cảm thay đổi,
con người trở nên khổ đau. Chúng ta đã gắn chặt mình với những hình ảnh, tình
cảm nào đó, nên chúng ta đau khổ khi mất chúng. Chúng ta nghĩ thân xác này là
chính chúng ta nên ta đau đớn khi nó bệnh hoạn, già nua hoặc khi nhìn người
khác bệnh hoạn, già nua, chúng ta cũng thấy đau khổ.
Sự đau khổ là dấu hiệu của sự mất
thăng bằng trong đời sống. Sự đau khổ khi mất mát của cải vật chất, thay đổi
tình cảm, hư hoại cơ thể, nói với ta điều gì? Có thể đơn gỉan là bản chất cuộc
đời là như thế. Chúng ta có mặt ở cõi đời, đấu tranh, giành giựt để đạt được
những gì ta nghĩ là ta cần có, và đau khổ trên con đường tìm kiếm chúng. Hết
chuyện. Nhưng thật vô nghĩa nếu cuộc đời chỉ có thế.
Nếu bạn cảm thấy đau ở chân, cái
đau báo cho bạn biết chân bạn bị nhiễm trùng, bạn có chỉ rùng vai nói: "Ở
đời là vậy mà. Có chân, thì phải đau". Nếu thế, sự nhiễm trùng sẽ lan tràn
cơ thể, làm chúng ta mất mạng sống. Như thế thật vô lý. Con người sẽ biết cái
đau đã báo hiệu một bộ phận nào đó bị thương tổn, cần được chữa trị. Con người
sẽ biết cái đau là một vấn đề cần được giải quyết. Cũng thế, những đau khổ
trong cuộc đời có lẽ là dấu hiệu cảnh báo với chúng ta rằng cách chúng ta cảm
nhận về của cải vật chất, liên hệ tình cảm, tư duy, cơ thể. . . không đúng.
Chính ta lệ thuộc vào của cải vật
chất, con người, tình cảm, thân thể chúng ta. Chúng ta tưởng chúng chính là
chúng ta, và bám víu vào chúng. Khi chúng bị hư hoại, hay mất mát, chúng ta cảm
thấy đau khổ. Chính sự bám víu này, cùng với u mê, là nguyên do đưa đến sự sợ
Chết. Càng bám víu, ta càng sợ Chết. Ai biết buông thả -biết rằng không có gì
thuộc về mình, biết rằng thân chúng ta chỉ là một phương tiện- người ấy được
gỉải thóat khỏi sự sợ hãi.
Thế nào là bám víu hay đồng hóa
ta với điều gì đó? Bám víu có nghĩa là chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần có điều
gì đó để hiện hữu. Đó là sự chấp Ngã. Nói cách khác là "Tôi là người quan
trọng, nên tôi cần có chiếc xe này. Chiếc xe này là của tôi, làm chủ chiếc xe này
chứng tỏ là tôi giàu có, thành công ở đời, chiếc xe này giúp tôi xác định chính
tôi". Hay "Tôi cần gắn bó với người phụ nữ này. Không có cô ta, tôi
sẽ không có hạnh phúc. Nếu cô ta bỏ tôi, tôi sẽ ngã gục, cuộc đời tôi sẽ mất
hết ý nghĩa". Người ta còn bám víu vào cả một tư duy nào đó.
Thí dụ, trong văn hóa Mỹ, từ nhỏ
người ta đã giáo dục con cái là phải có thứ này, thứ kia mới là có một cuộc
sống xứng đáng. Mẫu cuộc đời đó là sinh ra, lớn lên có một gia đình hạnh phúc, sống
trong những ngôi nhà gạch trắng, bao bọc bởi những vòng rào bằng hoa, có những
đứa con hiếu thảo. Ước vọng của mọi người là làm sao để tậu được những căn nhà
rộng lớn, có được hai chiếc xe, có được căn nhà thứ hai ở những nơi nghỉ mát, và
được hưu trí sớm. Những ước vọng này đã được xã hội mớm cho họ, gầy mầm trong
họ, và khi họ không đạt được những điều này, họ trở nên khốn khổ. Họ nghĩ là
cuộc đời đã bạc đãi họ.
Đó là bạn đã đồng hóa mình với
ngoại vật. Bạn đã tự vẽ ra mình, tự đồng hóa mình với những mẫu người sống
trong các ngôi nhà sạch sẽ, sang trọng và có một cuộc đời hoàn hảo. Bạn nghĩ đó
mới chính là bạn. Nhưng sự thật không phải thế. Đừng bám víu vào các hình ảnh này.
Hãy sống như cuộc đời dẫn dắt chúng ta với những thăng trầm của nó.
Cũng thế, khi chúng ta sân si, chúng
ta nghĩ "Tôi giận". Nói rằng "Tôi giận" là tự đồng hóa mình
với tình cảm giận, là nghĩ rằng tình cảm đó là chúng ta. Tình cảm không phải là
chúng ta. Là con người, chúng ta có khả năng giận dữ, có cảm thọ giận nhưng tất
cả các cảm thọ đó không phải là chúng ta.
Cũng thế, thân chúng ta không
phải là chúng ta. Chúng ta có thân. Chúng chỉ là phương tiện. Ta nói: Tôi cao
thước sáu. Tóc đen. Da trắng. Nhưng đó không phải là chúng ta. Vậy mà có ai chê
gì về dáng vẻ bề ngoài của ta, thì ta thấy đau khổ. Chúng ta hỏang sợ khi nhận
ra cơ thể của chúng ta trở nên già nua, chậm chạp.
Hầu hết chúng ta đều bám víu vào
Thân, đồng hóa thân và chúng ta. Do đó ta trở nên sợ hãi khi nghĩ đến mất Thân,
tức là mất đi cá thể và sự hiện hữu của mình. Bao giờ chúng ta còn chưa thức
tỉnh, chúng ta còn sợ hãi cái chết. Chúng ta còn là nô lệ của sự sợ hãi.
Cũng thế, ai bám víu vào của cải
vật chất, nhà cửa, quần áo, nữ trang, tiền bạc. Người đó càng sợ mất chúng. Vì
chúng đồng hóa với họ, mang đến cho sự hãnh diện, ý nghĩa trong cuộc sống. Lại
có người bám víu vào người khác. Họ đồng hóa tình cảm gắn bó là họ. Họ sợ cái
Chết của mình sẽ cướp mất đi tình cảm đó. Họ sợ cái chết của người họ thương
cũng vì cùng một lý do.
Để giải thóat khỏi những khổ đau,
ta đừng bám víu vào thân, của cái vật chất hay người khác. Ta cần phải nhớ rỏ
điều này. Việc giảm bớt dần, rồi đi đến chổ dứt bỏ hẳn những bám víu đó, không
có nghĩa là chúng ta phải quay lưng lại với cuộc đời, từ bỏ hết những niềm vui
trong cuộc sống, làm cho cuộc đời chúng ta nghèo nàn, mất ý nghĩa sống. Trái
lại là khác. Khi không vướng mắc, bám víu vào thứ gì, cuộc đời ta sẽ thêm ý
nghĩa, hạnh phúc hơn. Ta sẽ biết cho, biết nhận và cởi mở hơn với tất cả. Bám
víu có nghĩa là nắm chặt, giữ lấy, không buông thả. Nên khi cái Chết đến, tất
cả những nắm giữ sẽ bị dằn ra khỏi tầm tay chúng ta. Càng nắm chặt, sự giằng co,
xé rời càng dữ dội. Nỗi đau càng bội phần. Nếu chúng ta đi qua cuộc đời với hai
bàn tay mở rộng, không nắm giữ, thì dù cái Chết có đến, chúng ta cũng sẽ ung dung
tự tại, không luyến tiếc, níu kéo gì.
Tuy nhiên, không phải tự dưng một
buổi sáng thức giấc là chúng ta có thể buông thả hết mọi vướng mắc. Cần phải tu
tập cả đời. Cần phải thức tỉnh từng giây phút mới làm được việc đó vì có biết
bao quyến rũ, cám dỗ trong cuộc đời để chúng ta lại rơi vào sự dính mắc.
Ngã vào đời
Cái Chết có phải là sự tận cùng
của cuộc đời? Có phải tử thần là ma quỷ trong bóng tối, rình mò để bất chợp phủ
lấy chúng ta không báo trước?
Theo triết lý Đông phương, Chết
không phải là sự tận cùng của đời sống. Cơ thể ta ngưng hoạt động, các duyên
hợp (trong không gian và thời gian) tan rã. Nhưng tâm thức không mất. Hiểu như
thế thì cái Chết không quá đen tối, khủng khiếp. Cái Chết cũng tự nhiên như sự
Sống, cũng diệu kỳ và tốt đẹp như nhau. Tử cũng như Sinh đều dẫn đến sự sống, sự
phát triển.
Nhìn dưới khía cạnh đó, con người
do duyên hợp (trong không gian và thời gian) vì một nhân duyên nào đó. Giống
như trồng trọt ngoài đồng. Phải đợi đúng lúc, đúng nơi để gieo mầm. Nhưng khi
xong việc rồi, không có lý do gì để nấn ná ngoài ruộng. Rồi đến giai đoạn chờ
đợi cho hạt nẩy mầm, lớn lên. Lúc lúa đã chín, cây đã cao, ta lại ra đồng vì
một mục đích khàc, ở một thời điểm khác. Cuộc đời con người cũng thế. Chúng ta
sinh ra để sửa soạn, phân bón cho một mảnh đất vào một thời điểm nào đó, rồi
lại ra đi, chờ khi đến mùa gặt hái lại trở về.
Người ta có thể nói về cuộc đời
con người như một căn duyên, một năng lực, một kết hợp của không gian, thời
gian. Nguồn năng lực đó không thể bị hủy diệt, nó chỉ có thể được luân chuyển. Con
người đến ở một khoảng thời gian, không gian nào đó, rồi lại ra đi, đến một nơi
khác. Triết lý phương Đông cho rằng nghiệp lực của con người dẫn dắt con người
từ nơi này đến nơi khác, vì mục đích này hay mục đích khác, trong khoảng thời
gian này hay khoảng thời gian khác.
Dù ít, dù nhiều, Chết vẫn là mối
đe dọa của chúng ta.
Giây phút từ giã cuộc đời là giây
phút trọng đại khi con người chiếu rọi lại tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc
đời mình trong giây phút cuối: tất cả tình cảm, kỷ niệm, việc làm của cả một đời
người được cô động lại, tạo thành một lực dẫn dắt ta đi. Năng lực đó mạnh mẽ
đến nỗi nó có thể tạo hình cho cuộc đời mới của ta.
Chúng ta đã sống như thế nào cho
tới giờ trước khi ra đi rất quan trọng.
Thử so sánh cái Chết và giấc ngủ.
Suốt ngày ta làm gì sẽ tác động đến giấc ngủ của ta. Nếu ta lên giường ngủ với
bao hối tiếc, sợ hãi, bất mãn. . . thì giấc ngủ của ta sẽ bất ổn, và chắc chắn
chúng sẽ ảnh hưởng đến cả ngày hôm sau của chúng ta. Những ước vọng chưa được
thỏa mãn của ngày hôm trước sẽ ám ảnh ngày kế tiếp. Hay đúng hơn một ngày mới
đã bị đánh mất vì những hồi tưởng của ngày vừa qua.
Trái lại nếu ta đi vào giấc ngủ
với một tấm lòng thoải mái, bằng lòng, thì ngày hôm sau sẽ là một ngày mới mẻ
đón chờ chúng ta. Hãy sống trọn vẹn cho ngày hôm nay và đừng vướng mắc. Ngày
mai là chuyện của ngày mai. Mỗi ngày có nhiệm vụ và mục đích riêng của nó.
Cũng vậy, con người đã sống một
cuộc đời như thế nào thì sẽ ảnh hưởng đến giây phút lâm chung của họ thế ấy. Nếu
cuộc đời một người chỉ toàn sống bằng sợ hãi, ám ảnh thì giây phút lâm chung sự
sợ hãi còn tăng gấp vạn lần. Một người đã sống cuộc sống vô lề lối, thì cái
chết cũng đến một cách vô lề lối. Một người không làm chủ đời mình, sống không
có mục dích thì cái Chết cũng không thể lường trước được.
Trái lại, một người đã sống cuộc
đời nề nếp, kỷ luật, không bám víu vào gì, sẽ ra đi một cách thong thả. Như một
người khách biết đã đến lúc phải chia tay. Mục đích của cuộc đời họ đã đạt. Họ
thản nhiên ra đi, biết rằng thực tại ở bên trong họ vĩnh hằng, không hề bị ảnh
hưởng hay xao xuyến bởi người khác, bởi vật chất của cuộc đời mà họ sắp giã từ.
Sống hay Chết cũng nằm trên vòng
chuyển của bánh xe luân hồi. Hết vòng này lại đến vòng kia, nối tiếp nhau, không
ngừng. . .
Trích dịch từ SACRED JOURNEY:
LIVING PURPOFULLY AND DYING GRACEFULLY - Sri Swami Rama
Diệu Liên dịch
Nguồn: quangduc. com