Khế Kinh có câu: “Nước mắt chúng sinh
nhiều hơn nước biển”. Nghĩa là nước mắt chúng sinh chảy không bao giờ hết, vì
nguồn nước vô tận, còn biển thì có giới hạn, do đó nước biển cũng có giới hạn
mà thôi.
Câu nói trên chứng tỏ là bể khổ
mênh mông vô tận, không có gì so sánh được.
Vậy khổ là gì? Khổ theo nghĩa chữ
Hán là đắng, khó chịu đựng. Vậy khổ là những cay đắng, những điều làm cho mình
khó chịu, đau đớn.
Trong thế gian nếu kể các thứ
khổ, thì không bao giờ hết. Song theo các kinh Phật, thì có thể chia ra làm
8 thứ khổ: Sinh, Lão, Bệnh, Tử,
Ái Biệt Ly, Cầu bất đắc, Oán tăng hội, Ngũ ấm xí thạnh.
1. Sinh là khổ.
Trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn
Như Hầu Nguyễn Gia Thiều có câu:
“Thảo nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”
Đứa trẻ sơ sinh không biết gì hơn
là khóc, khóc để diễn tả những gì nó khó chịu, nó khổ: đói cũng khóc, đau cũng
khóc, lạnh cũng khóc, nóng cũng khóc. Có phước sinh ra trong gia đình giàu
sang, được cha mẹ nâng niu cũng khổ. Lỡ gặp chỗ nghèo khó, con hoang.v..v… mặc
tình người ta bỏ cho ruồi bâu, kiến cắn, sống ngoắt ngoải qua ngày.v...v..
Tinh thần thì chưa biết gì, còn
thể xác thì yếu đuối như sên, dễ nhiễm phong sương, cảm hàn, thấp khí. Vì trẻ
con dễ nhiễm bệnh mà lại không biết diễn tả với người lớn, không gì khác hơn là
khóc. Cho nên Đông Y đã có câu: “Thà chữa cho 10 người đàn ông còn hơn chữa cho
một người đàn bà, thà chữa cho 10 người đàn bà hơn là chữa cho một đứa con
nít”.
2. Lão là khổ.
Người già thì khí huyết suy, thân
xác hao mòn, mỏi mệt, hoạt động yếu ớt, lại hay sinh ra những bệnh nan y: mắt
mờ, tai điếc, răng rụng, tay chân run rẩy, thật không còn hương vị của cuộc đời
nữa. Ca dao có câu:
“Già nua là cảnh điêu tàn
Cây già cây cỗi, người già người suy”
Ngoài những bệnh về thể xác,
người già đôi lúc còn mang những bệnh về tinh thần, tâm trí lu mờ, quên trước,
quên sau.
Nếu có con cháu hiếu thảo, có tiền
của sung túc còn là phước, trái lại thì chẳng khác đứa nhỏ, dù có khả năng, mà
sức lực đâu để theo ý của mình.
3. Bệnh là khổ.
Tất cả chúng ta đều hiểu rằng đau
yếu là khổ, vì từ trẻ đến già không ai là không có lần trải qua kinh nghiệm ấy.
Từ bệnh nhỏ nhặt như đau răng, sổ
mũi, nhức đầu, ghẻ, cho đến bệnh trầm trọng như phong, lao, ung thư, tất cả đều
hành hạ thể xác lẫn tinh thần con người. Người bệnh ăn không ngon đôi khi không
thể ăn được, ngủ không yên, luôn luôn nằm trên giường mà rên siết, lắm lúc có
tư tưởng muốn chết cho rảnh nợ đời.
Thể xác suy mòn vì bệnh, tinh
thần yếu đuối cũng vì bệnh, tiền của hư hao cũng vì bệnh. Bệnh là kẻ tử thù của
con người trên thế gian, dù nền văn minh của vật chất tiến đến đâu cũng không
làm sao khỏi sự khổ ấy.
4. Tử là khổ.
Trong bốn hiện tượng của vô
thường: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, thì chết là cái khổ lớn nhất, và làm cho chúng
sinh kinh hãi nhất. Người gần chết cảm thấy thân thể chuyển đau đớn, do nơi
hiện tượng tứ đại sắp sửa phân ly, rời rã. Khi chết rồi, thân xác chướng phình,
nứt nẻ hôi tanh, thần thức theo nghiệp lực dẫn đi đầu thai vào một cõi nào chưa
biết, chưa nói đến kẻ ở trong tình trạng thân trung ấm bị trôi dạt trong kinh
sợ hãi hùng.
Vì chết là điều quá đau khổ, nên
con người thường sợ chết. Có kẻ biết mình sống thừa mà vẫn muốn sống, nghe đến
cái chết là hãi hùng run sợ, không dám chết nữa, mặc dù trước đó có tư tưởng tự
vận. Câu chuyện “Thần chết và lão tiều phu” của nhà văn Pháp La Fontaine là một
bằng chứng: Lão tiều phu đốn củi, sau nhiều năm khốn khổ trong chốn rừng sâu
núi thẳm, vất vả mà không kiếm đủ nuôi thân, nuôi gia đình, mới cầu Thần Chết
đến đem đi cho rảnh nợ. Nhưng khi Thần Chết đến hỏi: Lão muốn gì? Thì lão tiều
lại bảo: “Nhờ tay Thần nhắc đỡ bó củi lên vai”.
5. Thương yêu mà phải xa lìa là khổ.
Khi sống ai chả gần những người
thân thiết, cật ruột, những bạn bè thân mến. Đến khi gặp nạn chiến tranh hay
gặp thiên tai như bão, lụt, động đất, biển dâng, khiến phải ly biệt nhau, vợ xa
chồng, cha lìa con, bạn bè thân thiết mỗi người trôi dạt một phương, sống chết
không hay, thật là đau lòng xót dạ. Nếu gặp cảnh tử biệt thì càng khổ gấp muôn
ngàn lần.
6. Cầu bất đắc là khổ.
Người ta ở đời hy vọng càng nhiều
thì thất vọng càng lắm. Trên bước đường công danh, hễ trèo càng cao thì ngã
càng đau. Cũng bởi mê bã công danh, ham mùi phú quý, đắm đuối tình duyên, nên
khi danh không thành, phú không toại, tình duyên trắc trở, đâm ra ghét đời,
chửi rủa trời xanh bất công. Có khi vì dùng thủ đoạn để cầu danh mà bị bại lộ,
tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù đày, có khi vì ghen tuông mà phải quyên
sinh, chém giết, gây ra những thảm cảnh kể không xiết.
7. Oán ghét mà phải gần là khổ.
Người ta thường nói: “Thấy mặt kẻ
thù như kim đâm vào mắt. Ở chung với kẻ thù địch như nếm mật nằm gai”. Trong bà
con ruột thịt, gặp người không hợp không ưa, mà phải ở chung một nhà, ăn chung
một mâm, ra vào chạm mặt hằng ngày, không muốn nhìn phải nhìn, không muốn nói
phải nói, thật là khó chịu. Huống chi là người dưng nước lã khác giống, khác
nòi, khi đã thù ghét rồi, thì cái cảnh một còn một mất, cái cảnh tương tàn chém
giết không phải là điều dễ tránh.
8. Ngũ uẩn tranh dành nhau dày xéo là khổ.
Thân tứ đại cũng gọi là thân ngũ
uẩn, chỗ chứa năm thứ: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tức năm món che đậy làm cho
mê mờ.
- Sắc: Tất cả những gì về vật
chất, có hình tướng rõ như: xương, thịt, tay, chân, mắt, mũi, tim, gan, ruột,
phổi.v..v…
- Thọ: Sự cảm xúc và chịu nhận
như gặp đám chết sinh buồn, thấy giặc giả lo sợ, nghe tiếng bom nổ kinh khủng.
- Tưởng: Trí nhớ, sự tượng trưng
tất cả cái sống không có hình bóng như sự giận, nghĩ đến kẻ thương yêu mình bị
cách biệt, nhớ kẻ oán ghét mình.v..v…
- Hành: Sự động đậy, con người
sống không lúc nào là hoàn toàn yên ổn được mà phải động luôn, không ngủ thì
thức dậy, hết ngồi lại đứng, hết nghĩ sự này thì nghĩ việc nọ; máu phải chảy
luôn, phổi thở hoài, tế bào này chết đi, tế bào khác sinh ra.v..v…
- Thức: Nghĩa là cái biết sống,
ta biết ta sống, có ta đang sống, nếu ta như cây cỏ thì có gì khổ; song vì ta
biết sống mà lại không thể tự chủ, mất cả mọi sự tự chủ mà chỉ sống bởi các
thứ: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành.
Người trên đời khi cha mẹ sinh ra
là được đặt vào cái thế sống… Lớn lên cứ theo thường lệ: trai có vợ, gái có
chồng, đói ăn, khát uống. Cần có tiền bạc, cần có uy danh, cần phải thoả mãn
thú xác thịt, cần phải thoả mãn tâm tình luyến ái.v..v… Nhưng ở đời có ai là kẻ
tự hào thoả mãn sự sống đời Như thế này-của mình – Một chưa đủ, hai chưa đủ,
cần đến ba, bốn, cần vô số chưa vừa ý, như thế kia chưa vừa ý, và mãi mãi chưa
có gì vừa ý… tiền tài để sống, bao nhiêu là đủ, cái mức nào là vừa, nếu ngó
xuống thấp thì khác, mà ngó lên cao lại khác.
Uy quyền, danh tiếng bao nhiêu là
cùng, tài gì để trọn thi hành uy thế mình? Các thứ khác cũng thế, cứ chạy theo
ngoại cảnh mãi, nó như năng lực vô hình không cho mình an nghỉ, nên có câu:
“Nhất nhật thanh nhàn nhất nhật Tiên”. Người ta gọi tiên là kẻ sung sướng nhất;
và người ta nói: một ngày được thảnh thơi là làm Tiên một ngày vậy.
Con người bị đặt vào nếp sống từ
khi mới sinh ra, mới biết sống chẳng khác nào bánh xe đặt trên răng cưa, bị xô
đẩy, níu kéo mãi mà mất cái sống an nhiên nên khổ. Đói bụng đòi ăn, tối mắt đòi
ngủ, gặp nghịch thì tức giận, tim ngừng đập mình phải chết.v..v…
Ai sinh ra loài người, ta từ đâu
đến để hưởng lấy sinh, lão, bệnh… rồi tử đi về đâu? Cái sống là gì? Ta có bao
nhiêu năng lực trước vũ trụ đầy sức mạnh vô biên? Bao nhiêu câu hỏi và sự thật
chán chường, bất lực mà ta không giải quyết được, vì ta nào có biết gì để hành
động đâu, thế nên mê là khổ, mê là nguyên nhân khổ vậy.
Chúng nó tranh nhau trong một nếp
sống, ví như kẻ nghèo, miệng muốn ăn, bụng cồn cào đói, song không có tiền. Thấy
tủ tiền của kẻ khác bỏ trống, tay muốn lượm, song ý nghĩ rằng: Làm bậy sẽ tù
tội.v..v… Cái này đi hướng kia, cái nọ đi hướng khác, nghịch cảnh, nghịch ý làm
cho ta phải khổ.
Khi một ấm thạnh, thì liền chi
phối một giác quan, kéo luôn các ấm kia tấn công con người, làm cho con người
bị luật vô thường biến chuyển không ngừng, bị thất tình lục dục lôi cuốn làm
cho đắm nhiễm sáu trần, phải khổ lụy thân, tâm bị vọng thức điên đảo, chấp nhất
phân biệt nên thấy có ta, có người, có còn, có mất, sinh ra sầu não, bỏ hình
bắt bóng, trầm luân.
Chấp nhận có “Ta” thì cái “Ta”
của mình khác cái “Ta” của người, mạnh ai nấy lo. Lòng ích kỷ nảy sinh từ đó,
mục đích là bảo tồn sự sinh sống của cái “Ta” làm cho sự sinh sống ấy sung
sướng đẹp đẽ hơn người. Vậy, ích kỷ là lòng tham không đáy. Tham tức có tranh
đấu dành cái sướng cho mình; để cái không sướng cho người. Mong mà được thì
vui, mong không được thì buồn. Được rồi lại sợ mất, lo mất mà vẫn mất, nên cái
lo thành cái khổ. Đến khi bất đắc chí thì oán trách người, trách trời. Tham lam
giận ghét như thế là tại si mê, không biết, không thấy mà càng si mê thì tham
và sân càng dày, càng tăng, lẩn quẩn, loanh quanh không sao dứt được nghiệp
chướng luân hồi.
Từ vô thỉ, cái giống động phát
nguồn cho vũ trụ. Tâm mê muội của chúng sinh đắm nhiễm vào cái động ấy mà sinh
ra các pháp, rồi nhận lấy các pháp ấy là thật để bị chi phối gieo cái nhân từ
vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tự tạo lấy cái dây nghiệp lực trói buộc lấy mình, nên
có sinh diệt, để rồi hứng chịu cái khổ ải của sinh diệt truyền nối từ đời này
sang kiếp khác không bao giờ dứt.
Phải biết rõ các sắc thái của
khổ, tìm hiểu nguồn gốc sinh ra khổ để gặp “khổ” mà không sợ, để không tham cầu
mà bị hoàn cảnh chi phối. Đoạn được nghiệp lực thì mới thoát được khổ.
Trong cuộc đời giả tạm này, cũng
có người đang sống đầy đủ vật chất, không mối bận tâm lo nghĩ. Đó là những kẻ
đang hưởng phước của kiếp trước.
Nhưng cuộc đời là ảo mộng, phú
quý, vinh hoa như giọt sương mai, nếu không hồi hướng tu hành, vun đắp quả
phước thì hưởng hết phước rồi, sẽ chịu muôn ngàn đau khổ của luân hồi trong
những ngày tàn của kiếp hiện tại và trong vô cùng kiếp về sau.
Phương tiện diệt khổ
Trước cảnh mênh mông của biển mê,
con người cảm thấy là bọt bèo, yếu đuối, hải hùng lo sợ, không biết bấu víu vào
đâu để vượt qua ngàn sóng trùng dương.
Phật pháp là con đường duy nhất
đưa ta sang bờ giác ngộ để nhập vào cuộc sống an nhàn, vĩnh cửu.
Tu Phật là tìm những phương tiện
gỡ lần từng lớp vô minh bao trùm ta từ vô thỉ. Những phương tiện ấy là:
1. Phép sám hối.
Sám hối là thú nhận những lỗi lầm
đã phạm, và nguyện từ nay không tái phạm nữa. Trong sự sám hối, phải thành thật
soi vào nội tâm, nhận tất cả đều là lỗi của mình, mà quyết tâm giữ gìn không
buông lung theo lối cũ.
Sám hối làm nảy sinh lòng từ bi,
hỉ xã, thương chúng sinh mà rộng lòng bố thí, khắc khe trì giới. Những hạnh này
trừ được cái nhân xấu của kiếp trước, làm nhẹ quả hiện tại.
2. Phép quán tưởng.
Quán tưởng là tập trung tư tưởng
để quán xét cho thấu đáo. Có 4 điều mà kẻ tu hành thường để tâm nghĩ đến:
a. Quán thân bất tịnh: Nghĩa là
quán sát một cách tường tận về sự đục, bẩn của cái thân ta, để đối trị lòng
tham sắc dục.
b. Quán thọ thị khổ: Là quán sự
nhận lãnh là khổ, để đối trị bệnh tham danh vọng… tiền tài.
c. Quán tâm vô thường: Là quán
cái tâm luôn luôn thay đổi, cái “Tâm” giả tạo, lòng tự ái, ngã mạn, ích kỷ.
d. Quán pháp vô ngã: Là quán các
pháp đều giả, không có tự tướng, để đối trị ý niệm trọng, khinh, lòng tranh
chấp trong xã hội.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có câu:
“Nhân duyên hoà hợp, hư vọng hữu sinh. Nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt”
nghĩa là các nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sinh ra, các nhân duyên chia rẻ
thì giả dối tắc diệt. Vậy đủ biết: Tất cả các pháp làm nhân duyên cho nhau in
tuồng là có, chứ không có tự tướng. Không có tự tướng tức không ngăn ngại phân
biệt…
3. Phép thiền định.
Phép này quan hệ nhất, mở rộng
sáng suốt, giúp tâm ý được thanh tịnh, diệt được mười kiết sử, tức là
10 thứ phiền não gốc, trói buộc
con người, sai khiến chúng sinh, làm cho chúng sinh đắm chìm trong luân hồi
không bao giờ dứt. Mười kiết sử ấy là:
• Tham : Luyến ái thân, cảnh.
• Sân : Giận dữ, oán hờn.
• Si : Mê tối nhận xét sai lầm
nông nổi.
• Mạn : Chỉ biết nâng giá trị
mình, dìm giá trị người.
• Nghi : Ngờ vực không chánh tín.
• Thân kiến : Chấp thân này là
thường còn.
• Biên kiến : Chấp một mặt, không
đúng toàn bộ sự thật.
• Tà kiến : Nghĩ, nói tà vạy, mê
tín, dị đoan, không thích hợp chánh lý.
• Kiến thủ : Bảo thủ ý kiến của
mình, không biết phục thiện.
• Giới cấm thủ : Làm theo lời răn
của tà đạo, ôm khư khư những sự làm không hiểu, tự trói buộc…
Thiền định giúp ta biết đích xác
con đường đưa đến Chân, Thiện, Mỹ, tăng trí tuệ để thông hiểu vũ trụ, khỏi rơi
vào cái vô minh gốc của đau khổ.
Tóm lại, tu mới trừ được nghiệp
lực mà có trừ được nghiệp lực mới diệt được khổ. Người Phật tử luôn luôn tin
rằng con đường mình đi là Chánh Đạo, luôn luôn tự tin có đủ nghị lực để vượt
qua mọi trở ngại, mọi quyến rũ của danh lợi, sắc dục, luôn-luôn tinh-tiến trên
công năng tụ tập thiền định, luôn luôn nhẫn nhục để chế ngự lòng sân hận, những
vọng động, vọng hành, vọng tưởng của thức tâm. Như vậy, chẳng sớm thì muộn, làm
gì cũng đạt được giải thoát sinh tử luân hồi trong kiếp hiện tại.
Nguồn: daolamnguoi.vn