Một chén trà thơm trong nắng mai,
một mái nhà đơn sơ giản dị, với những gì
thật đơn giản nhẹ nhàng… là những gì ta có thể quan niệm về một lối sống đơn
giản và an nhàn. Điều này rất dễ nhận ra. Nhưng giữa một xã hội xô bồ, đầy
những tiện nghi vật chất quyến rũ, làm sao ta có thể tìm thấy được một lối sống
có thể gọi là an nhàn và đơn giản. Đó là vấn đề.
Đánh giá một bức tranh với mặt hồ
là một tấm gương tuyệt mỹ vì có những
ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây
trắng mịn màng, mà bảo là một cảnh trí thanh bình êm ã thì không phải là khó.
Nhưng với một bức tranh có những ngọn núi đá trần trụi lởm chởm, bầu trời thì
đen kịt và giận dữ, mưa trút xuống dữ dội làm nên những dòng thác hung hãn đổ
ào ào nổi bọt trắng xóa. Trong đó tìm cho ra một sự bình an của con chim mẹ
đang an nhiên đậu trên tổ của mình trong cơn giông tố thì cần phải có một con
mắt tinh đời.
Và khi chiêm nghiệm, định giá hai
bức tranh kia, người thưởng thức nghệ thuật mới nhận ra một điều được thể hiện
thầm kín vô ngôn trong đó: Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng
ồn ào, không có khó khăn cực nhọc. Bình yên là ngay trong phong ba bão táp ta
vẫn tìm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó chính là ý nghĩa thực của sự bình
yên. Cũng vậy, sự đơn giản thực sự chỉ có được khi phát xuất từ một tâm trạng
an nhàn và vô sự, hay đúng hơn là sự đơn giản từ nội tâm.
Chúng ta đã tự mình vẽ nên bức
tranh hoảng loạn của thời đại và đau khổ, buồn vui trong đó, với những trận
cuồng phong, những dòng thác lũ của dục vọng. Nói khác đi, chính dục vọng đã âm
thầm thúc đẩy con người đi đến xây dựng một thế giới mà trong đó nó phải chịu
đựng tất cả.
Dục vọng là gì? Dục vọng là những
tham vọng thèm khát về tài sản, địa vị, quyền thế, về tiện nghi vật chất, về
tham vọng được yêu thương chiều chuộng, và thậm chí còn ưa muốn với tới những
gì trường tồn vĩnh cửu bất di bất dịch, một cái gì làm thỏa mãn tư dục lâu dài.
Tất cả những thứ này đã làm xáo động tâm tư và đời sống của chúng ta. Dục vọng
luôn luôn phải có một nội dung là biểu tượng và cảm giác hướng tới đối tượng
của chính nó. Biểu tượng có thể là một bức tranh, một hình ảnh, một người, một
lời nói…
Tóm lại là toàn thể những đối
tượng thuộc về lục trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tất cả những thứ này
có thể mang lại một khoái cảm, một cảm giác nào đó và chúng ta nảy sinh một cảm
giác yêu ghét (xúc thì sinh ái). Nếu cảm giác có thể dễ chịu, nhẹ nhàng, thì ta
muốn được nó, có nó và nắm giữ đối tượng ấy và tiếp tục truy cầu những gì thỏa
mãn với những tình cảm của mình. Tâm tư luôn biến động thay đổi, muốn tìm cầu
cái mới để tiếp tục thỏa mãn và vì vậy, nó bắt đầu thấy đầy ứ, chán chường mệt
mỏi với những hình thức tiếp thọ cũ mà tìm kiếm một cái gì đó mới lạ hơn nhằm
thay thế và khỏa lấp sự chán chường ấy. Cứ như vậy tâm cứ rong ruỗi theo những
đối tượng của dục vọng. Hiển nhiên khi bị lệ thuộc bởi những đối tượng của lòng
tham vọng thì nỗi sợ hãi bất như ý luôn quấy động tâm tư. Bởi 'thân người thì
hữu hạn mà ước muốn lại vô cùng' nên ước muốn là mầm móng của những nỗi bất an.
Lưỡi vướng vị ngon, tai vướng tiếng
Mắt theo hình sắc, mũi theo hương
Lênh đênh làm kiếp phong trần mãi
Ngày hết quê xa vạn dặm đường [1]
Tất cả những sự kiếm tìm, theo
đuổi của tham vọng trên đều xoay quanh một trung tâm điểm duy nhất là bản ngã
hẹp hòi. Chán chường mệt mỏi với một đối tượng nào đó ta lại tìm cách lấp đầy
bản thân bằng một tham vọng khác. Cứ như thế, với ảo tưởng muốn đem lại sự bình
an hạnh phúc cho cái 'tôi', ta lại dễ đánh mất mình trong sự truy cầu ấy. Và
cuối cùng còn lại sau hậu trường là một sự trống rỗng khủng khiếp của tâm hồn,
trở thành kẻ vong thân trong thế giới nội tại.
Thiền sư Suzuki, trong Thiền và
Tâm phân học, nói: "Ở đâu chủ nghĩa cá nhân được nhấn mạnh, ở đó cảm giác
hỗ tương câu thúc hay căng thẳng ngự trị. Ở đây không có tự do, không có tự
nhiên, mà có một không khí hay cấm chế sâu xa, nặng nề đàn áp và đè nén, ức chế
người ta và kết quả là đủ thứ hỗn loạn tâm lý"[2]. Như khi ta nói đến cái
'triết lý quần áo' của thế giới biểu hiện thời hiện đại, mọi người ăn mặc vì
tất cả mọi người. Hay nói đúng hơn là muốn thể hiện mình trước con mắt phê bình
và chỉ trích của mọi người theo quy cách của thời đại. Sự kiện đó chỉ là sự thể
hiện mình thành cái gì khác hơn là mình. Điều ấy thú vị, nhưng khi nó đi quá
xa, ta đã mất đi cái đặc tính của mình mà trở thành xa lạ.
Quả vậy với phương cách này, càng
ngày ta càng trở nên xa lạ với chính mình, 'ngày hết quê xa vạn dặm đường', xa
với thực tế sự liên hệ giữa mình với người khác, với nhiên giới trong tiến
trình khổ đau cũng như hạnh phúc. Ta quên rằng sự truy cầu cho chỉ riêng cá
nhân theo tư dục bản năng chỉ đưa tới khổ đau. Con người hiện đại vong bản đến
mức chỉ còn thấy mình tồn tại để hưởng thụ và rồi chán chường tuyệt vọng trong
một cuộc sống vô nghĩa lý như một nhà xã hội học, ông Erich Fromm, đã nói về
con người hiện đại: "Tôi không cần biết bản thân mình là ai vì luôn luôn
tôi bận hưởng thụ" Và "Nó sẽ trở thành những con quỷ, nó sẽ tiêu diệt
thế giới của bản thân nó, vì không thể chịu đựng hơn nữa sự buồn chán của một
cuộc sống vô nghĩa."[3]
Sự đơn giản chỉ có thể xảy ra
trong nội tâm. Và sự đơn giản ấy chỉ có thể có được khi nào ta hiểu được những
trở ngại, những cố chấp, sợ hãi mà chúng ta đang vướng kẹt. Tất cả chúng ta nói
chung, đang 'thích' vướng mắc, thích bị ràng buộc trong nhân thế, trong những
vật sở hữu càng nhiều càng tốt, thích là kẻ tù tội lao lung. Trong tâm tư chúng
ta đang là kẻ bị trói buộc, dẫn dắt bởi những tham vọng, những thèm khát, những
ham muốn và dao động bởi những tâm lý tương tự.
Sự đơn giản bình an chỉ có được
khi những tác động ấy được chấm dứt, hay là được tự do. Sự phát hiện bên ngoài chỉ là dấu hiệu của trạng
huống bên trong tâm thức, và muốn hiểu được trạng huống bên trong tất nhiên
phải đi bằng con đường ngoại giới. Như soi gương, hình ảnh trong gương chỉ là
những biểu hiện của sự kiện thật bên ngoài. Muốn thấy được mình thì phải nhìn
trong ảnh tượng ấy, nhưng để sửa đổi lại không thể thọc tay qua tấm gương được.
Chính sự quan sát thâm sâu thế giới ngoại tại như sự hiện thể của nội tâm mình,
chúng ta thấy rằng cần thiết phải có một lối sống ít ham muốn, biết vừa đủ, hay
là đơn giản để đem lại bình an cho mình, và cho thế giới bên ngoài. Ai dám chắc
rằng điều xảy ra đối với người kia hôm nay không liên hệ tới mình và ngày kia
sẽ không xảy ra đối với mình.
Kinh Bát Đại Nhân Giác nói:
"Càng lắm ham muốn lại càng nhiều khổ đau, rằng bao nhiêu cực nhọc trong
cõi sinh tử đều do ham muốn mà có. Trong khi đó, người ít ham muốn thì không bị
hoàn cảnh sai sử, lại cảm thấy thân và tâm mình được nhẹ nhàng và thư
thái."[4] Trong tâm còn có một đối tượng nào để tìm cầu, dù là danh tiếng
lương thiện, ly dục, thì sự đơn giản hay tri túc chưa thể nói tới một cách trọn
vẹn.
Sự đơn giản thực sự phải là tinh
thần vô nguyện, không mong cầu, tức là không đặt bất cứ một đối tượng nào để
chạy theo nó. Còn chạy có nghĩa là tâm vẫn chưa được an trú. Lòng khao khát có
nhiều hơn nữa, sự theo đuổi những biểu tượng, những tiếng, những lời, những
hình ảnh, với những cảm giác do chúng tạo ra, tất cả những điều này phải được
nhận diện và chuyển hóa, có thế tâm trí mới mong trở nên sáng tạo, nơi trạng
thái sáng tạo này, sự mới lạ luôn luôn xuất hiện. Sự sáng tạo ấy là sự thức
tỉnh của tâm trí để đón nhận những gì mới mẻ xảy ra trong thế giới chuyển biến
vô thường.
Trong tiến trình thức tỉnh ấy, ta
thấy tham dục chẳng có ý nghĩa nào đối với một người thực sự đi tìm lẽ sống. Cố
nhiên ta không thể bỏ qua những nhu cầu sinh hoạt, nhưng không nên để cho những
nhu cầu ấy trở thành trung tâm điểm của lòng tham dục. Một người có tâm hồn
giản dị, không mong cầu là người thực sự luôn an trú trong trạng thái tĩnh lặng
và sáng suốt cùng hiện hữu. Người này thực sự là một kẻ có đầy đủ bản lĩnh để
sống bình an trong cơn cuồng phong nộ thủy của thế giới ngoại tại. Nhưng con
đường nào đưa tới bình an? Bình an chính là con đường (peace is the way). Chính
vì vậy, sống an bình trong mỗi phút giây là đang thực hiện con đường bình an.
Nguyễn Công Trứ nói: "Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc, tri nhàn tiện
nhàn đãi nhàn hà thời nhàn".
Tâm ta mong cầu không bao giờ
biết dừng lại, chờ cho đủ thì đến bao giờ mới đủ. Biết đủ, an nhiên chấp nhận
những gì mình có để sinh hoạt thì tự khắc mọi cái đều trở nên không còn thiếu
thốn. Biết sống an nhàn trong đời sống này, đừng so sánh nó với ai, đừng đợi
đến khi nào đó mới hưởng nhàn, thì lập tức sự an nhàn có mặt. Còn mong đợi tức
là còn khắc khoải hoài vọng, tức là còn thấy thiếu thốn, bấy giờ đã đánh mất
đời sống qúy báu của mình trong hiện tại. Cố nhiên có những ham muốn lại mang ý
nghĩa của những nhu yếu đích thực có lợi cho sự an lạc của thân tâm trước hết
cho chính bản thân mình và sau đó là nền tảng để thực hiện niềm vui cho tha
nhân. Đó là sự thực tập Từ Bi, ước muốn đem hiến dâng niềm vui và giúp người
bớt khổ.
Sống nhàn, sống an tịnh là vậy,
nên ta bắt gặp một thái độ sống đơn giản mà giải thoát tuyệt vời của các vị
thiền sư trong tinh thần phá chấp. Cái tinh thần mà mọi cơ trí, tình thức đều bị
quét sạch hết. Có người còn gọi trạng thái tinh thần ấy là "Nghèo".
Các thiền sư nghĩ đến cái nghèo thiết thực và thơ mộng hơn; các ngài gợi thẳng
đến việc của thế gian, đến những gì rất gần gũi. Thiền sư Vô Môn (1183-1260)
cảm tác:
Hoa xuân muôn đóa bóng trăng thu
Hạ có gió vàng đông tuyết rơi
Tuyết nguyệt phong ba lòng chẳng chấp
Mỗi mùa mỗi thú mặc tình chơi.[5]
Bài thơ không ngụ ý tác giả chỉ
ăn không ngồi rồi, không làm gì khác, hoặc không có gì để làm khác hơn là
thưởng thức hoa đào nở trong nắng sớm, hoặc ngắm vầng trăng đìu hiu; không, có
thể tác giả đang say sưa làm việc, đang giảng giải, đang tụng kinh, đang quét
chùa, dãy cỏ như thường lệ, nhưng lòng tràn ngập một niềm thanh tịnh khinh an…
Tâm họ là tâm "không", thân họ là thân "nghèo". Vì nghèo
nên họ thưởng thức được hoa xuân, biết ngắm trăng thu. Nếu của cải của thế gian
chứa chất đầy con tim thì còn chỗ nào cho những lạc thú thần tiên ấy? Các thiền
sư quen cái giàu phi thế tục của sự giàu có muôn vật trong đời, nào đèn trăng
quạt gió, nào kho vô tận, thật quá đủ lắm rồi. Đó là tinh thần tự do thực sự,
mà phải 'Nghèo' kia mới được tự do, như nhà văn Dante đã nói "ai không thể
sống nghèo không thể có tự do", ấy mới thực là chí lý.
Các ý thức hệ tôn giáo, đảng
phái, có thể đưa tới những đấu tranh là bởi cố thủ cái kiến chấp của mình. Chất
chứa kiến thức như vậy cũng là một sự ham muốn. Tâm trí chứa đầy những kiến
thức về những sự kiện, về những gì người khác đã nói, có thể dễ dàng ảnh hưởng
bởi một ý thức hệ nào đó, và cuối cùng tạo nên những thành kiến. Khi nhận thức
một sự vật, đầu óc rối rít những tri kiến như vậy, khiến ta không có khả năng
sống giản dị và tự mình trực nghiệm. Sự việc được nhận thức qua một mớ định
kiến đã trở nên méo mó và sai lạc. Càng chất chứa càng tạo thành cố chấp. Kiến
thức đối với thiền cũng ví như của cải, là tích trữ tài sản, nó phải cần buông
bỏ. Đó là thực hiện tinh thần nghèo và khiêm hạ. Có thể biết rất nhiều, nhưng
làm như không biết gì cả, đó mới thực là cái biết rộng lớn, nói như biện chứng
của kinh Kim Cang. Quả thực biết mà còn thấy mình đã biết thì rất dễ thỏa mãn
và kiêu ngạo. Thái độ đó sẽ không học hỏi gì hơn từ con người và thế giới tự
nhiên. Chén trà đã đầy thì không còn rót thêm vào được nữa.
Trong những điều kiện thực tế nội
tại của thân năm uẩn, nếu nhìn cho kỹ, quan sát cho thấu đáo, thì mới thấy rằng
còn đôi mắt sáng là niềm vui, thân thể khỏe mạnh, cử động tự do linh hoạt là
một phép lạ v.v… Vì cố chạy theo những đối tượng hình sắc bên ngoài mà đôi khi
ta đã bỏ quên những điều kiện hạnh phúc an vui trong tầm tay. Bầu trời xanh
trong, mặt đất thầm lặng, với bao nhiêu cảnh tượng tuyệt vời sẽ không bao giờ
hà tiện với chúng ta. Cái cốt yếu là biết đúng lúc đặt gánh nặng của những âu
lo toan tính để sống lại với chính mình, với thiên nhiên mà thôi.
Trong đời sống xã hội hiện đại,
nền văn minh vật chất đã bộc lộ những mặt tiêu cực của nó. Con người thì nhân
tính bị tước đoạt trong những guồng máy của sản xuất và tiêu thụ. Tâm tính cũng
như khối óc họ mệt mỏi. Đời sống trở nên hời hợt và vô vị. May mắn là con người
đã bắt đầu nhìn ra và quay trở về với lối sống đơn giản, đời sống thiền tập,
chống lại lối sống tiện nghi vật chất và máy móc, không để cho lối sống hưởng
thụ khống chế. Được làm người chính là nhu yếu căn bản mà con người đã từng
kiếm tìm và cũng đã vô tình bít lấp.
Sống đơn giản không có nghĩa là
khước từ toàn bộ những tiện nghi cần thiết cho sự sống và tiến bộ. Nhưng hai
chữ tiến bộ cần phải hiểu nó trong toàn diện tinh thần và vật chất. Nếu đời
sống tâm linh bị đánh mất thì sự sống cũng lạc hướng và tiêu hoại. Phải can đảm
lắm, sâu sắc lắm mới ăn nói, hành động và suy nghĩ cách 'đơn giản' giữa thời
đại xa hoa này. Chúng ta không mong cầu một cuộc sống bình lặng như bức tranh
tuyệt mỹ kia mà chính trong sóng gió làm sao để giữ được một phong thái, một
thế đứng vững vàng trong thế cuộc. Đó là ý nghĩa của nếp sống biết buông bỏ,
một lối sống đơn giản tự chủ trong tâm hồn.
Quảng Thông
Nguồn: phathoc.net
[1] Nguyễn Lang, “Việt Nam Phật
Giáo Sử Lược", cuốn 1, tr. 296:
Tỷ trước chư hương thiệt tham vị
Nhãn manh chủng sắc nhĩ văn thanh
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.
[2] Suzuki, ‘Thiền và Phân tâm
học’ tr. 70, Như Hạnh dịch, Kinh Thi xuất bản lần thứ nhất.
[3] Erich Fromm, ‘The Present
Human Condition’.
[4] Thiền môn nhật tụng – 2000,
Nhất Hạnh dịch.
[5] Suzuki, ‘Thiền luận’ quyển 1,
tr. 577, Trúc Thiên dịch, An Tiêm xb 1970.