Một trong những đặc tính quan
trọng của giáo pháp Đức Phật là giúp người hành trì có được an lạc trong hiện
tại. Những người không hiểu Phật pháp thường cho rằng tu theo đạo Phật là hướng
đến một thế giới khác, đó là cõi Cực lạc hay Niết-bàn. Do nhận thức sai như thế
nên không ít người cho đạo Phật là tiêu cực, bi quan, yếm thế.
Niết-bàn hay cõi Cực lạc là có
thật, là mục tiêu hướng đến của người tu Phật, nhưng đó không nhất thiết là một
thế giới nào đó ở phương Đông hay phương Tây, không phải là một thế giới mà ở
đó có những niềm vui phàm tục như người ta tưởng tượng. Và con người cũng không
thể có được Niết-bàn hay cõi Cực lạc khi mà ngay trong đời sống này không có
được sự bình an, niềm an vui, hạnh phúc của sự rũ bỏ những phiền não khổ đau.
Phật pháp có thể giúp con người
an lạc trong hiện tại (hiện tại lạc trú) để có được Niết-bàn hay Cực lạc ngay
trong đời sống này. Khi đoạn tận những phiền não khổ đau (vô minh, tham ái,
chấp thủ…) thì Niết-bàn có mặt ngay trong cõi đời này. Mà muốn đoạn tận phiền
não khổ đau thì phải ứng dụng Phật pháp. Có thể nói một cách đơn giản, Phật
pháp là phương pháp của Phật giúp chúng sinh chấm dứt khổ đau, có được an vui
hạnh phúc. An vui và hạnh phúc này khác với an vui, hạnh phúc của thế gian, bởi
vì nó không có mầm mống của đau khổ.
Đức Phật và các vị Bồ tát, Duyên
giác, Bích-chi, La-hán đều không còn bất cứ phiền não khổ đau nào (đã giải
thoát) dù các Ngài sống trong cõi đời ô trược này. Các Ngài luôn ở trong
Niết-bàn, Cực lạc. Khi còn tại thế, các Ngài an trú trong Hữu dư y Niết-bàn
(Niết-bàn khi còn mang thân ngũ uẩn); sau khi thân hoại mạng chung, các Ngài an
trú trong Vô dư y Niết-bàn (Niết-bàn khi thân ngũ uẩn không còn) (Tiểu bộ kinh,
kinh Phật thuyết như vậy).
Trong kinh Tạp A-hàm, Đức Phật có
nói: “Như Lai tuyên bố rằng: thế gian, nguồn gốc của thế gian và con đường dẫn
đến sự chấm dứt thế gian đều nằm trong tấm thân một trượng này”. Và Đức Phật
cho biết về đặc tính của cảnh giới Niết-bàn như sau: “Sự tận diệt tham, tận
diệt sân, tận diệt si (vô minh), đó gọi là Niết-bàn” (kinh Tạp A hàm),
“Niết-bàn là sự đoạn tận tham ái đưa đến tái sinh”, “Niết-bàn là sự tịnh chỉ
các hành” (Trường bộ kinh, kinh Đại bổn), “Niết-bàn là giải thoát tham, sân,
si” (Trường bộ kinh, kinh Đại bát Niết-bàn)… Niết-bàn không phải là đối tượng
của nhận thức hữu ngã, tham ái, chấp thủ. Niết-bàn vượt lên mọi tư duy, ngôn
ngữ, khái niệm, bởi đó là trạng thái an lạc, hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng
khi tâm con người thanh tịnh, không còn các phiền não tham, sân, si.
Nếu tu học một thời gian mà tâm
tư sầu muộn, mặt mày héo úa, có vẻ buồn bã ủ dột, người khác tiếp xúc cảm thấy
nặng nề, không sinh tâm hoan hỷ; thấy ai cũng thấp kém, thấy ai cũng lầm lỗi,
chỉ có mình là cao thượng, là chơn chánh; thấy ai cũng nhiễm ô, chỉ có mình là
thanh tịnh; càng tu bản ngã càng lớn, phiền não tham, sân, si càng nhiều; tất
cả những biểu hiện đó cho thấy mình đã không thực hành đúng Chánh pháp: sai về
sự dụng tâm, dụng công, sai về phương pháp tu tập, thực hành Chánh pháp, từ đó
sự tu tập, thực hành Chánh pháp không mang lại an lạc trong hiện tại.
Còn cõi Cực lạc, như kinh A Di Đà
có nói rõ: “Chúng sinh ở cõi nước đó không có các nỗi khổ, chỉ thọ những niềm vui”.
Cõi Cực lạc là nơi “các bậc thượng thiện nhân câu hội”, ở đó không có kẻ phàm
phu tục tử đầy dẫy tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… Nên “không thể dùng chút
ít thiện căn, nhân duyên phước đức mà được sinh về cõi Cực lạc” mà phải thực
hành, tu tập để đạt đến trạng thái “nhất tâm bất loạn” thì mới có thể vãng
sinh.
Tuy nhiên, ngay khi đạt được
trạng thái “nhất tâm bất loạn”, tâm không còn vọng tưởng điên đảo, không còn
phiền não tham, sân, si thì nền tảng của Cực lạc đã có mặt, yếu tố an vui, tịnh
lạc của cõi Cực lạc đã có trên cõi đời này, khi ấy Ta-bà chẳng khác gì Cực lạc,
và chắc chắn sau khi thân hoại mạng chung sẽ vãng sinh về Cực lạc.
Thực ra cõi Cực lạc cũng là một
dạng Niết-bàn, cõi Cực lạc cũng được xây dựng, kiến tạo bởi niềm tin thanh tịnh,
hướng thượng (tín), bởi tâm ý hướng thượng (nguyện), bởi công phu tu tập chuyển
hóa phiền não khổ đau, thanh tịnh hóa tâm ý (hạnh) bằng pháp môn Tịnh độ (niệm
Phật, ăn chay, giữ giới, trau giồi đạo đức, phạm hạnh, bố thí, tu tập tâm từ,
bi, hỷ, xả, những chất liệu làm nên cõi Cực lạc), đó cũng là sự tu tập Tín,
Tấn, Niệm, Định, Tuệ.
Khi thành tựu pháp môn Tịnh độ,
không còn các phiền não tham, sân, si, tâm thanh tịnh, an lạc hiện tiền sẽ có
được cõi Cực lạc ngay trên cõi đời này, đó chính là những gì mà Đức Phật và các
bậc Thánh giải thoát đã nói: “Tâm mình tịnh thì quốc độ tịnh” (Kinh Duy ma),
“Khi ta thanh tịnh, ta thấy thế giới thanh tịnh” (Trường bộ kinh), “Ba nghiệp
thân, khẩu, ý thường thanh tịnh, cùng Phật đến Tây phương Cực lạc”…
Do đó, khi cho rằng thực hành
Phật pháp để sau khi từ giã cõi đời này (chết) sẽ được về cõi Phật, cõi
Niết-bàn, đó là một suy nghĩ sai lệch. Chúng ta sẽ chẳng có cõi Niết-bàn, Cực
lạc nào cả nếu như trong đời sống hiện tại chúng ta không có được bản chất an
vui, tịnh lạc của Niết-bàn, Cực lạc; nếu như tâm chúng ta còn vô minh điên đảo,
còn đầy dẫy những phiền não tham muốn, giận hờn, ghét ghen, đố kỵ, kiêu căng
v.v… Nên thực hành đúng theo Phật pháp thì chắc chắn chúng ta có được Niết-bàn,
Cực lạc ngay trong hiện tại, trên cuộc đời này, và sau khi bỏ xác thân này
chúng ta vẫn an trú trong Niết-bàn, Cực lạc. Không có chuyện sau một đời sống
đầy những phiền não khổ đau là một đời sống an vui hạnh phúc.
Nếu ngay bây giờ chúng ta sống
trong khổ não, bất an, sống trong tăm tối của vô minh mê lầm, tâm đầy phiền não
cấu uế, thì dù cho cúng bái, tu hành khổ hạnh, tụng đọc trăm ngàn bài kinh, câu
kệ, niệm muôn vạn lần câu Phật hiệu, in kinh tạo tượng, bố thí, cúng dường cũng
không có được Niết-bàn, Cực lạc sau khi từ giã cõi đời này (tức sau khi chết
như một số người thường nghĩ).
Nhưng nếu làm đúng như lời Phật
dạy, bố thí, cúng dường, tu tập đúng pháp thì có thể có được Niết-bàn, Cực lạc
ngay trong đời này, ngay khi chưa từ bỏ xác thân này, đó là diệu dụng của Phật
pháp. Cho nên mới nói “an lạc trong hiện tại” (hiện tại lạc trú) là một trong
những đặc tính của Phật pháp.
Cũng là những việc làm: ngồi
thiền, niệm Phật, trì chú, đọc tụng kinh điển, lễ bái, cúng dường, bố thí,
phóng sinh… nhưng không có chánh kiến, chánh tư duy, chánh niệm thì những việc
làm đó chỉ là thế gian pháp, tà pháp chứ không phải là Chánh pháp, Phật pháp.
Nếu nghĩ rằng phải tu khổ hạnh,
sống kham khổ để Phật thấy mà thương, sau khi chết được Phật rước về Cực lạc;
nếu nghĩ rằng phải niệm Phật thật nhiều cũng như kêu Phật mỗi ngày để Phật nghe
mà đến giải khổ cho mình, cứu độ mình, tiếp rước mình; nếu nghĩ rằng bỏ ra thật
nhiều tiền in kinh, tạo tượng, bố thí, cúng dường để lập công, mong muốn Phật
thấy những việc mình làm mà ban an vui hạnh phúc cho mình, giúp mình tai qua
nạn khỏi, hoặc đưa mình về cõi Phật, cõi Niết-bàn sau khi chết v.v…; tất cả
những suy nghĩ đó đều là mê lầm.
Bản chất của Cực lạc, Niết-bàn là
vô lậu, thanh tịnh, không còn phiền não khổ đau, không còn vô minh điên đảo,
tham ái, chấp thủ, là an lạc, tịch tịnh… Tất cả những việc tu tập, hành thiện
đều nhằm mục đích xả bỏ bản ngã, trừ tâm chấp trước ngã và ngã sở, ta và của
ta, xóa đi tâm phân biệt ta và người, đoạn trừ các phiền não tham, sân, si để
có được bản chất của Cực lạc, Niết-bàn.
Chính nhờ đặc tính “an lạc hiện
tại” (hiện tại lạc trú) mà người tu học xác định được mình có thực hành đúng
Chánh pháp hay không. Bởi vì trong quá trình học và tu, nếu không thấy an lạc
tức là đã thực hành không đúng Chánh pháp. An lạc có được của người thực hành
đúng theo Chánh pháp không giống với những niềm vui thế tục, nó vi diệu hơn,
thù thắng hơn, và đặc biệt là không có chứa mầm mống của thất vọng, khổ đau,
não phiền. An lạc có được của người thực hành đúng theo Chánh pháp là tâm bình an,
pháp hỷ, thiền duyệt, tịnh lạc.
Nếu tu học một thời gian mà tâm
tư sầu muộn, mặt mày héo úa, có vẻ buồn bã ủ dột, người khác tiếp xúc cảm thấy
nặng nề, không sinh tâm hoan hỷ; thấy ai cũng thấp kém, thấy ai cũng lầm lỗi,
chỉ có mình là cao thượng, là chơn chánh; thấy ai cũng nhiễm ô, chỉ có mình là
thanh tịnh; càng tu bản ngã càng lớn, phiền não tham, sân, si càng nhiều; tất
cả những biểu hiện đó cho thấy mình đã không thực hành đúng Chánh pháp: sai về
sự dụng tâm, dụng công, sai về phương pháp tu tập, thực hành Chánh pháp, từ đó
sự tu tập, thực hành Chánh pháp không mang lại an lạc trong hiện tại.
Nếu sự tu hành buồn bã, tẻ nhạt,
vô vị thì đã không có nhiều người tu. Các bậc vương giả, các nhà hào phú, chẳng
ai dại gì từ bỏ đời sống giàu sang nhung lụa, quyền uy danh vọng để đi tu. Ngày
nay cũng không ít người hướng về Phật pháp vốn xuất thân từ gia đình giàu có;
không ít người thành đạt trong xã hội, có địa vị, quyền thế, có sự nghiệp lớn;
không ít người vốn thuộc hàng danh gia vọng tộc, thuộc tầng lớp trí thức, là
nhà chính trị, nhà quân sự, nhà văn hóa, là bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học… Chính
vì họ tìm thấy được niềm an lạc trong Chánh pháp vượt xa hạnh phúc thế gian mà
họ đem cả cuộc đời mình hướng về Chánh pháp.