Dòng đời vô tận

Trong huyền thoại Duy-Ma-Cật, thầy Tuệ Sỹ có ghi lại rằng Đại Tỳ – bà – sa nói đến hạng chúng sinh thông minh. “Thông minh theo nghĩa là biết định hướng cho dòng đời vô tận của mình“. Để không nhầm lẫn với bất cứ ý nghĩa thông minh nào khác, kinh Phật gọi nó là “bồ – đề” và hạng chúng sinh thông minh ấy được gọi là “bồ – đề – tát – đoả”. Yếu nghĩa thu hút nằm ở 2 cụm từ “định hướng” và “dòng đời vô tận”.

Dòng đời vô tận hay chuỗi sinh tử, tử – sinh bất tận tuỳ thuộc quan niệm của mỗi tôn giáo. Yếu tố quan trọng hàng đầu của tôn giáo chính là bậc “giáo chủ”. Giáo chủ ở đây được nói đến trong ý nghĩa nhân cách của một vị khai sáng. Với nội hàm như vậy, ta có thể đề cập: Chẳng hạn trong Kitô giáo thì vị giáo chủ là “Đấng Jesus”. Do Thái giáo thì nhận Kitô là chúa cứu thế. Hồi giáo thì có đức Mohammed. Và đấng giáo chủ của Phật giáo là đức Phật Thích ca Mâu Ni.

Ba tôn giáo lớn đều có 3 vị khai sáng riêng và tạm gọi “giáo chủ”. Riêng Nho giáo tuy không phải là tôn giáo nhưng Đức Khổng Tử là người đã dày công đặc nền móng. Với Đạo giáo thì tôn thì Lão tử là giáo chủ.

- Mỗi tôn giáo đều có Thánh điển cơ bản tượng trưng cho những qui định về giáo lý, giáo qui và giáo luật.

- Bản thể tuyệt đối là vấn đề triết học, vừa là yếu tính để hình thành nên một tôn giáo: với Kitô giáo là Thượng đế. Với Ấn Độ giáo là Phạm ngã hay Đại phạm thiên. Với Phật giáo là Như Lai – Pháp tính hay Tính Không, tất cả đều cùng ý nghĩa như nhau. Với Nho gia là “Thiên mệnh”. Với Đạo gia thì gọi là “Đạo” (gọi miễn cưỡng là Đạo).

- Mục tiêu tối hậu hay cứu cánh và lộ trình giải thoát của mỗi tôn giáo có khác nhau, hình thành trên yếu chỉ nền tảng là “Tự lực” hay “Tha lực”. Đối với Ki-tô giáo thì lộ trình giải thoát là cứu rỗi và mục tiêu được sinh vào “Thiên quốc vĩnh hằng” hợp nhất cùng với Thượng đế. Đối với Ấn Độ giáo, mục tiêu tối hậu là giải thoát không còn lòng vòng trong luân hồi “Phạm ngã hợp nhất” hay “Phạm ngã không hai”. Đối với Đạo giáo thì mục tiêu “Trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một” . Nho gia thì “Trời, người hợp nhất”.

Riêng đối với Phật giáo, một tôn giáo điển hình về yếu chỉ “Tự lực”. Đức Phật là Bậc giác ngộ. Giáo pháp của Ngài, được Ngài ví như” “ngón tay chỉ trăng”. Kinh điển nhà Phật dạy mỗi chúng sinh đều có Phật tính và tự mình có thể thành Phật, nghĩa là giác ngộ thông qua tự lực mà thành tựu và tự lực thông qua phương thức tinh tấn tu tập giới – Định – Tuệ để đạt mục tiêu tối hậu là cảnh giới Niết bàn giải thoát.

Tự ngàn xưa còn vang vọng đến tận bây giờ và có lẽ cho đến cả ngàn sau, mỗi người trong cõi nhân sinh luôn luôn bất lực trước sự cuốn hút đầy bí ẩn của câu hỏi canh cánh bên lòng “Ta là ai, ta từ đâu đến và chết sẽ về đâu?” và bằng sức tưởng tượng phong phú hay bằng trí suy diễn trên sự đa thù, đa sai biệt của biến dịch đầy bất lực trần gian, đã xuất hiện những luận thuyết, những niềm tin khác nhau nhằm giải đáp những ưu tư đó: Rằng con người có một linh hồn bất diệt, đã đầu thai thành con người hiện hữu và sau khi chết, linh hồn sẽ đầu thai tiếp tục ở nơi khác để có một kiếp sống khác. Rằng những nếp sống có nhiều hạnh thiện, hạnh tốt đẹp sẽ tin mình được vào thiên đường, sống xấu xa đầy ác độc khi chết sẽ bị đày đoạ về địa ngục. Thiên đường được xem là cõi cao nhất và địa ngục là cõi thấp nhất đối với cõi người. Cảnh giới thiên đường hay địa ngục hoàn toàn siêu việt không thể mô tả qua trí năng và có nội dung khác nhau tuỳ theo quan niệm, và niềm tin mỗi tôn giáo.

Trong văn học, âm nhạc và nghệ thuật hội hoạ, chúng ta bắt gặp không ít qua các cảm xúc của tác giả.

Chẳng hạn nhạc sĩ quá cố Trịnh Công Sơn trong một chợt cảm xúc đau đớn khi được tin người bạn tử nạn, ông bức xúc cầu nguyện

“Xin cho một người vừa nằm xuống
Thấy bóng thiên đường ở cuối trời thênh thang”

- Nhà thơ Nguyên Sa trong những thời khắc gặm nhấm của niềm đau, đã hiện thực hoá cảnh giới địa ngục ngay trong tâm tưởng kiếp người

“Cửa địa ngục hai bên lồng ngực
Phải vác theo trăm tuổi đường dài”.

Ông mường tượng ra rằng, sống trong trần gian gây nhiều điều xấu, điều ác thì phải trả nợ quả đó ngay nơi chốn địa ngục hiện tiền.

“Lúc ra đi hai chân đằng trước
Mắt đi sau còn vương vấn cuộc đời
Hai mươi năm, buồn ở đấy, trên vai
Thân thể nặng đóng đinh bằng tội lỗi”

- Ông Đinh Hùng, nhà thơ đi tiên phong của phong trào thơ mới, có khuynh hướng tự do phóng khoáng từ lúc còn tuổi học trò “Đã từng phen trèo cổng bỏ trường về/Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn”. Khi lớn lên, sau những năm tháng phong trần, trải nghiệm những biến dịch, đưa đẩy ông lặn sâu vào thế giới nội tâm và thoáng hiện chập chừng phía bên kia của thế giới hiện thực, là một cõi vô cùng, cõi vĩnh hằng của linh hồn.

Ông viết

“Hồn từ siêu thoát phàm thai
Sầu trong tà dục, vui ngoài thiện tâm
Hồn ở khắp sơn lâm, hồ hải
Hồn sống trên hiện tại, tương lai”

Sinh tử theo quan niệm Hồi giáo

Trong Thánh kinh Koran có ghi “Jesus và Moses” chiếm địa vị rất cao trong tư tưởng Hồi giáo, nhưng Chúa đích thực là Thánh Allah và các Thánh dụ của Ngài truyền qua lời giảng của nhân vật tiêu biểu là Mohammed sinh quán tại Meca. Quan niệm về sự hiện hữu con người được hình thành gồm thể xác, và linh hồn nối kết với nhau, trong đó linh hồn là linh hồn của Thượng đế được thổi vào, và lúc đó một mạng sống tinh thần được hoàn thành.

Sự sống và cái chết đều có mệnh do thánh Allah trên trời qui định. Khi một con người phải chết theo quyết định thì linh hồn được giữ lại trên trời. Mục đích của cái chết nằm ở chỗ có kỳ hạn. Trong kỳ hạn này, Thượng đế sẽ trải qua một tiến trình thử thách cho con người về cuộc đời họ. Theo giáo sư Triết Phùng Lô Tường, trường đại học Boston tại Mỹ, thì giáo nghĩa Hồi giáo trong Kinh Koran có tiêu chí thử thách là điều thiện và điều ác. Phán xét xem con người trong thời gian đó làm việc tốt hay việc xấu, nhưng dù con người có hành vi thế nào đi nữa thì sau cùng họ cũng về lại bên Thánh Allah nếu có đức tin. Như vậy cái chết đến với người không phải là sự trừng phạt mà chỉ là kết thúc một kỳ hạn thử thách và phán xét. Sau khi quay về với thượng đế bên cạnh Allah sẽ được sinh lại một mạng sống mới ở một trình độ khác chứ không có chuyện “sống lại”.

Theo kinh Koran, trong thời gian sống mà không tin Thánh Allah tức không là tín đồ Hồi giáo, khi chết sẽ đoạ vào địa ngục và bị trừng phạt. Còn nếu có đức tin Thánh Allah thì trong ngày phán xét cuối cùng, người làm điều thiện, điều tốt sẽ được tưởng thưởng, làm điều ác sẽ bị trừng phạt. Đứng trước sự phán xét cuối cùng của Thánh Allah thì mỗi người sẽ nhận hậu quả của hành vi chính mình chứ không ai cả gánh vác với mình dù cho người đó là bảo hộ đi nữa. Vì vậy, trong kinh Koran, phủ nhận rằng việc đức Jesus chết, Thượng đế để cho Jesus lên thiên đường và tượng hình giả thay thế đức Jesus chịu đóng đinh trên thập tự giá để nhận lãnh cái chết. Đó là lý do thể hiện họ không tin vào thuyết Phục sinh.

Quan niệm sinh tử của Ki-Tô giáo

Theo truyền thống tư tưởng của Ki-tô giáo thì khởi nguyên mang tính nền tảng của vấn đề sinh tử là “Tội tổ tông”. Tội tổ tông được qui kết, theo kinh Cựu ước, do Adam và Eva ăn trái cấm trong vườn địa đàng nên đã phạm mệnh lệnh của Thượng đế và 2 người chịu trừng phạt bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng.

Quan niệm này có ghi lại trong Tân ước rằng vì một người duy nhất, đó là Adam, mà tội lỗi đã nhuốm trần gian và đã gây nên sinh tử, đó là “Tội tổ tông”. Chỉ có thượng đế có lòng khoan dung nên mới chuộc được tội lỗi này. Theo giáo lý Ki-tô với con người có đức tin “Jesus là đức Ki-tô, đấng cứu Chúa cứu thế và đi theo Ngài thay đổi nhân sinh thì vấn đề sinh tử sẽ được khắc phục.

Quan điểm phục sinh của con người thì theo Thánh kinh cho rằng chính những giọt máu linh thiêng chảy từ thân Jesus khi bị đóng đinh trên thập tự giá đã rửa sạch “Tội tổ tông”, do vậy chỉ cần mọi người có đức tin ký thác vào đấng Jesus Ki-tô thì Ngài sẽ cứu rỗi cho và sau khi chết sẽ được sống lại. Sự sống lại ở đây không hiện hữu trong thân xác thịt da con người mà là sống lại trong “thân thể thiêng liêng”. Trong “thư gửi tín hữu Roma”, Kinh Tân ước Paul có dạy: “Chết chính là người an giấc trong Jesus”. Vì vậy, theo Ki-tô giáo cái chết không đáng sợ, vì linh hồn người chết có đức tin sẽ về ngự trên cung điện thượng đế, các linh hồn sẽ sống chung một thế giới của Thượng đế, thế giới của hạnh phúc vĩnh cửu. Vậy cái chết là sự khởi đầu cho một hình thái sống vĩnh hằng trên cung điện của Thượng đế.

Thế giới của Thượng đế không thuộc thế giới này, thế cho nên những thứ như danh lợi, giàu sang, phồn vinh của vật chất đều là hư ảo, hư danh, nó thoáng qua như mộng, như sương khói, như phù vân. Con người phải nhận thức như vậy nên phải sống với lòng bác ái, thường xuyên làm điều tốt, làm lợi ích cho tha nhân, lấy sự tôn vinh Thượng đế, tôn thờ Thượng đế làm trách nhiệm chính bản thân. Quan niệm Ki-tô giáo nhấn mạnh, Ngài Jesus vì tất cả muôn loài mà hy sinh thân mình, vì vậy nếu xác tín được niềm tin nơi đức Jesus Ki-tô và thấm nhuần được ánh sáng của Ngài ban cho thì sẽ có được đời sống vĩnh cửu.

Ngài răn dạy con người không nên buông xuôi theo đời sống xác thịt, hãy lấy Đức mến mà phục vụ lẫn nhau và chỉ có tình yêu nhất là Tình yêu của Ngài thì con người mới có thể được sống vĩnh cửu.

Quan niệm sinh tử của Ấn giáo

Giáo lý cơ bản của Ấn Độ giáo có nguồn gốc từ kinh Vệ – đà (Vé das), Áo nghĩa thư (Upanishads) và Bạc – gia – phạm – ca (Bhagavadgita). Trong Ấn giáo còn tách ra 3 trưởng phái Vê-đan-ta (Védanta), phái Số luận (Samkhya) và phái Du-già (Yoya). Trong thời kỳ Vệ – đà thượng cổ, Ấn giáo có khai sinh Bà-la-môn (Brahmana) họ chủ trương có 1 vị thần tối cao quyền uy sáng tạo duy nhất và từ đó xã hội được thiết kế theo một chế độ giai cấp. Bà la môn xây dựng một nhân sinh quan qua 4 giai đoạn: thời kỳ học sinh, thời kỳ trưởng thành lập gia đình, thời kỳ khổ hạnh tu thiền, ở trong rừng sâu, thời kỳ sau cùng là buông bỏ đời sống, buông bỏ mọi sinh hoạt của đời thường, ngao du khắp nơi. Nếu ai tu hành, chọn lựa phương thức sinh hoạt như vậy thì họ không còn đặt vấn đề sợ hãi đối với sinh tử.

Vào thời kỳ cuối của kinh Vệ – đà đã khai sinh Áo nghĩa thư có nội dung nổi trội là tư tưởng chủ đạo “Phạm ngã bất nhị”, lý thuyết Nghiệp và thuyết luân hồi. Thuyết luân hồi cho rằng, sự hiện hữu của một chúng sinh đều do tích luỹ vô số nghiệp và nó là động lực quyết định sự luân hồi sinh tử trong những kiếp sống kế tục. Phạm trù nhân quả có vai trò chuyển đổi: ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ và hình thành tương ứng với hai cảnh giới Thiên đường và Địa ngục.

- Phái số luận quan niệm về Ba cõi và mười bốn sinh là cơ sở để nhìn nhận về sinh hỉ. Ba cõi là cõi trời, cõi người và cõi thú. Mười bốn sinh chỉ 14 địa vị sinh tồn: trong đó có 8 cõi trời, cõi người chỉ một và 5 cõi thú như sống bằng 4 chân, sống bay lượn, sống có trí, loại đi bằng xương sống ngang, loại không đi được. Tuỳ vào hạnh nghiệp và công đức tích luỹ trong kiếp này mà quyết định cho cuộc sống kế tiếp thuộc về loại và cõi nào nhập

- Phái Yoga được người đời xem Patanjali như là vị tổ, mặc dù tư tưởng Yoga đã bàn bạc từ lâu. Phái Yoga không triển khai một hệ thống triết học nào mà chỉ nhằm thiết kế các qui định, các phương pháp thực tiễn để tu luyện và đưa thức giác đến viên mãn đại ngộ. Phái Yoga tôn thờ một vị thượng đế tên là Icvara. Theo Patanjali thì cần phải diệt trừ vọng tưởng, mọi dao động trong dòng sông tâm tưởng con người. Để thực hiện điều này không thể chỉ có trầm tư mặc tưởng mà cần phải thanh tịnh hoá hình hài của mình bằng biện pháp giữ gìn giới luật, đồng thời phải thăng hoa chân khí trong con người bằng cách điều hoà hơi thở, được xem như một gạch nối liền thể chất và tâm linh con người.

Yoga chủ trương con đường tu luyện tâm linh được chia làm 8 bậc

1/ Giới là đứt bỏ các điều ác, xấu

2/ Luật là tự răn mình tránh thói hư xấu

3/ Điều thân hay luyện thân thể

4/ Điều tức hay luyện hơi thở, luyện khí

5/ Điều tâm là chế ngự 5 giác quan

6/ Quán tưởng là mức độ cao của điều tâm, tập trung tinh thần.

7/ Thiền là tập trung quán tưởng về một vấn đề hay một ý niệm trừu tượng.

8/ Diệt tưởng và nhập đại định

Về cơ bản, Yoga chủ trương phải nỗ lực tu trì cho đến khi đạt trạng thái tâm ý tĩnh lặng, an nhiên tự tại, tạo phong thái thong dong khi đối diện với cái chết vì sau khi chết con người sẽ sinh vào cõi nào thì hãy nhìn vào cuộc sống hiện tại của mình.

Sinh tử theo quan điểm Tây Phương

Có lẽ thuận theo quan điểm của N. Whitehead, ông là giáo sư Triết học nổi tiếng, có rất nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng Đông Phương, giảng dạy tại đại học Harvard Mỹ, ông khẳng định: “Sự phát triển của Triết học Tây phương từ 2.500 năm nay chẳng qua chỉ là những dòng cước chú dưới những trang sách Triết học của Plato mà thôi“.

Plato quan niệm vũ trụ gồm 2 phần là “thế giới hiện thực” hay hạ giá và “thế giới ý niệm” hay thượng giới. Con người vì thế cũng gồm 2 phần: thể xác và linh hồn, chết là sự phóng thích linh hồn ra khỏi thân xác. Linh hồn thì bất tử, sẽ thoát khỏi thể xác khi con người chết đi, nó sẽ trở về thế giới ý niệm. Vì vậy theo ông, con người sống phải phát huy mặt thiêng liêng thánh thiện nằm trong linh hồn, sự chết chính là sự giải thoát cho linh hồn để bước vào ánh sáng vĩnh hằng của thế giới ý niệm, nên không phải lo sợ. Ông khẳng khái cho rằng, những kẻ trì thì “biết chuyên tâm dốc chí để luyện tập cái chết’.

Plato định nghĩa (theo GS Phùng Lô Tường) linh hồn là “cái có khả năng thúc đẩy chính nó vận động – những cái gì có linh hồn đều bất hủ – vì tất cả những gì tự nó hoạt động đều là cái bất hủ“.

Sinh tử theo quan niệm Đạo Phật

Nội dung của giáo lý Phật ít có sự dị biệt đối với Bà la môn giáo. Điểm dị biệt là Phật giáo thiên về trí tuệ, đặt trọng tâm về tự lực tu chứng mà không muốn cầu mong sự cứu trợ của các vị thần linh hay chư Phật. Hơn thế nữa, sự khác biệt còn thể hiện trên phương pháp giảng dạy Phật pháp: điểm phát xuất bắt nguồn từ những sự kiện của thế giới hiện tượng, thế giới tâm lý để nâng lên bình diện cao hơn. Chẳng hạn, nhận xét rằng đời người cùng kiếp sống chúng sinh đều “khổ ải” và để đi tìm nguyên nhân của khổ, Đức Phật đi sâu vào tâm lý học, dần dần mở đường đến bình diện cao siêu, bình diện của ” Tự thể” hoặc “Niết bàn”. Trên bình diện cao siêu, trừu tượng, Phật thường im lặng, không muốn giảng giải tự biện nữa, không muốn đi vào tranh biên siêu hình mà xao lãng việc tu chứng.

Theo ý kiến của các nhà luận sư, trong lúc sinh thời, Phật chỉ muốn giảng dạy những điểm còn thấp, còn thô sơ cho nền Phật học nguyên thuỷ, bởi vì Đức Phật hiểu căn cơ của chúng sinh chưa khái mở, cho nên chỉ cần kết cấu một chiếc bè thô sơ để đưa chúng sinh đến gần bến giác mà thôi. Lúc bấy giờ Ngài thường nói về Tứ Diệu đế, về Thập nhị nhân duyên, về thuyết Ngũ – uẩn, về quan niệm vô ngả trong tâm lý học, và quan niệm nghiệp báo trong luận lý học, về Bát chánh đạo trong con đường tu luyện.

Thực ra giáo lý Đạo Phật đều hàm dung một cách sâu rộng trong Tứ Diệu đế gồm 4 tầng: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Những quan niệm còn lại chỉ nhằm khai triển làm sáng tỏ rộng rãi những nội dung trong Tứ Diệu đế.

1. Khổ đế: Mọi chúng sinh đều là phiền não và khổ ải: sinh là khổ, già là khổ, chết là khổ, ưa thích cái gì mà không được là khổ, hay đắm say triền miên trong ngũ dục cũng là khổ. Đây là một sắc thái bi quan và độc đáo của đạo Phật, trong khi truyền thống trong các Kinh Vệ đà (Vé-das), Áo nghĩa thứ (Upanishads), Bà la môn thì ca ngợi vẽ huy hoàng của cuộc sống.

Danh sĩ tiền bối Ôn Như Hầu, trong Cung oán ngâm khúc đã than thở:

“Thoát sinh ra miệng đà khóc choé
Trần có vui sao chẳng cười khì”

Hay là

“Tuồng ảo hoá đã bầy ra đó
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau”

Thi sĩ Bùi Giáng có vẽ tế nhị, nỗi khổ tiềm ẩn sâu trong tâm hồn như một vết thương của nhát chém hư vô.

“Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại
Chẳng bao giờ thoả đáng giữa đời câm
Em ngó mãi những chiều về trở lại
Mang những gì về trong cõi trăm năm”.

Nhưng rồi có lúc ông phải đối diện với cái nguyên hình trần trụi hơn của khổ ải:

“Một đời lận đận đo rồi đếm
Gối mỏi người đi đứng lại ngồi”.

2. Tập đế: Nguyên nhân của khổ là Tập. Tập là tập quán, là thói quen tích luỹ từ nhiều kiếp quá khứ trong nhận thức. Theo lời dạy của Đức Phật hết thảy cái sự vật trong cõi đời vốn là vô thường và giả hợp, giả tưởng, thế mà con người trong mỗi sát na, lại trải qua bao nhiêu kiếp lại lầm tưởng là thật, là thường. Ngay cả hình hài và tâm tưởng con người cũng biến đổi không ngừng. Chẳng hạng trong Y học đã chứng minh cứ 7 năm thì các tế bào sẽ thay đổi hết, máu mỗi ngày mỗi thay đổi. Tâm tưởng con người cũng không ngoại lệ, có lúc vui, lúc buồn, lúc thương, lúc ghét nối tiếp sinh diệt liên tục

Nhà thơ Nguyễn Công Trứ khi viết “Vịnh cảnh Hà Nội” ông đã không giữ được xúc cảm trước nỗi tan thương, cảnh vật đổi sao dời:

“Giang sơn trầm tiếu cổ hưng vương
Đồ thiên nhiên riêng một bức tang thương
Khách du lãm coi chừng thăm hỏi
Đã mấy độ sao dời vật đổi
Nào vương cung đế miếu ở đâu nào?
Mỉa mai vượn hót oanh chào”.

Một lần khác, ông tỏ ra bùi ngùi, ngao ngán cho thế thái nhân tình trong đôi mắt chứng nhân lẽ vô thường của nhân gian và thế sự;

“Ra trường danh lợi, vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai, khóc trước cười
Chuyện cũ trải qua đà chán mắt
Việc sau nghĩ lại, chẳng thừa hơi”
Tình cảnh làm quan

Để làm rõ cái vô thường và tính giả hợp của sự vật là nguyên nhân khổ ải trong Tập đế, Đức Phật giảng dạy “Thập nhị nhân duyên. Mười hai nhân duyên này gồm: Vô minh sinh Hành, hành sinh Thức, thức sinh Danh sắc, danh sắc sinh Lục nhập, lục nhập sinh Xúc, xúc sinh Thọ, thọ sinh Ái, ái sinh Thủ, thủ sinh Hữu, hữu sinh Sanh, sanh sinh Lão, Tử…

Thông thường người ta xem Vô minh như là một định đề không giải thích được, tuy nhiên cơ thể hiểu là “Không thấy sự thật, không sáng suốt.v.v.v. và Vô minh đứng vị trí then chốt, chẳng hạn do vô minh nên trong thức giác sinh khởi thế giới ta bà, vô minh sinh vọng niệm, vọng niệm lại sinh ra chồng chất vọng niệm khác.v.v. Cái vòng nhân duyên xem như bắt đầu từ vô minh lại kết thúc bằng vô minh. Vô minh có thể xem như được kết tập nên bởi nghiệp lực của luật nhân quả. Nghiệp là gốc rễ bám trong vô minh và là nguyên nhân của sinh – lão – bệnh tử. Có thể nói rằng, với cái nhìn qua Thập nhị nhân duyên thì các sự vật, từ hình hài đến giòng cảm xúc và tâm linh, đều suy động bởi nghiệp lực của quá trình nhân quả.

3. Diệt đế: Phật dạy con đường loại trừ mầm mống của khổ là phải diệt vô minh, phép màu của đạo diệt là Bát chánh đạo gồm: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mệnh, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Bát chánh đạo là một sự khai triển chi tiết của 3 phạm trù: Giới (Chính ngữ, chính mệnh, chính nghiệp). Định (chánh niệm, chánh định, chánh tinh tấn, chánh tư duy). Tuệ là trí tuệ, tức đạt đến những thức cao siêu (chánh kiến).

4. Đạo đế: Bát chánh đạo là con đường tu tập giải thoát căn bản khi đối mặt với sự khổ ải và vô minh, theo danh từ nhà Phật, thì lúc đó hành giả sẽ liễu ngộ đạo hay đạt đến cảnh giới của Niết bàn. Lúc còn sinh thời, Đức Phật đều giữ im lặng trước câu hỏi “Niết bàn là gì?” dù đó là câu hỏi của đệ tử bên cạnh Ngài, vì nếu trả lời có lẽ Ngài buộc phải chấp một số ý kiến thế gian để giải thích một trạng thái đã vượt khỏi phạm vi tương đối. Đó là điều Ngài không muốn. Vì vậy, Bồ Tát Long Thọ đã viết: “Niết bàn là ngừng định ngừng hết tất cả những tư tưởng vô và hữu, sắc và không” hoặc diễn đạt: Niết bàn có nghĩa là huỷ diệt sinh tử, huỷ diệt thế giới dục vọng, huỷ diệt điều kiện không – thời gian hay là Niết bàn là thế giới không có không – thời gian và thế giới nào không có không – thời gian, đó là Niết bàn.

*  *  *  *  *
Ý nghĩa căn bản của Phật pháp là nhằm giải quyết vấn đề sinh tử cho nên sinh tử là vấn đề trung tâm nhất của Phật pháp: “Ngoài sinh tử không có Phật pháp, ngoài Phật pháp không có sinh tử“.

Phật giáo là sự hợp nhất giữa Tôn giáo và Triết học. Đây là điểm nổi bậc nhất của Phật giáo. Quan niệm của đức Phật về thực tại càng ngày càng phát triển và trở thành triết lý của đạo Phật. Thể hiện quan điểm đó trong cuộc sống thực tế của con người, đó là khía cạnh tôn giáo của đạo Phật.

Sau 49 năm thuyết giảng Phật pháp, Đức Phật luôn luôn nhắc nhở mọi người phải động não tư duy phản tỉnh chứ đừng vội tin Ngài. Thậm chí Phật giáo còn được xem là “Vô thần luận”. Tinh hoa của Phật giáo trên con đường tu tập là nhấn mạnh việc tỉnh ngộ, chủ yếu là tự lực và giác tỉnh nội tâm vì Phật dạy mỗi chúng sinh đều có Phật tính. Có thể trích dẫn ý kiến của Junjiro Takakusu, thầy Tuệ Sỹ dịch “Nếu không có quan điểm chân chính về đời sống thì sẽ không có sự tu dưỡng, và nếu không có sự tu dưỡng chính đáng thì sẽ không có sự thể nghiệm đời sống. Sự tu dưỡng ở đây lại có ý nghĩa là kết quả của suy tư chân chính”.

Bát chánh đạo có thể xem như là nền đạo đức thực nghiệm có mục đích rèn luyện đức hạnh con người trở nên cao đẹp hơn, đồng thời là con đường tôn giáo đưa người đến giác ngộ, thành Phật.

*  *  *  *  *
Trên đây là khái lược các quan niệm về sinh – tử của 4 tôn giáo lớn của nhân loại. Họ có một điểm giống nhau là xem vấn đề sinh – tử là vấn đề căn bản quan trọng của đời người. Các điểm khác biệt sâu sắc nhất ở chỗ: hình thái tôn giáo “Tự lực” và hình thái “Tha lực”.

Ngoại trừ Phật giáo, các tôn giáo khác và một số trường phái tư tưởng khác như Ki-tô giáo, Bà la môn giáo Ấn Độ, Hồi giáo, Khổng giáo, Đạo giáo thể hiện niềm tin đựa vào “Tha lực”, theo nghĩa mặc khải vào một quyết định do Định mệnh, Thiên định, Thượng đế hay tương tự.

Chẳng hạn đối với Khổng giáo chủ trương Thiên mệnh là nguyên lý cơ bản nhân sinh, nói theo Nho giáo: “Sống chết có mệnh. Chết yểu hay sống thọ không có gì khác nhau. Tự sát để tìm cái chết cũng là định số trong mệnh”. Tất cả đều được định đoạt một cách thầm kín, không một ai có thể can thiệp được.

- Đạo giáo cho rằng Đạo là căn nguyên của vạn vật. Lão Tử dạy:

“Vô danh thiên địa chi thuỷ
Hữu danh vạn vật chi mẫu”.

(Không tên là khởi đầu của trời đất
Có tên là mẹ của vạn vật)

Đạo đức kinh lưu ý: “Ra đời là sống, vào đất là chết, cứ mười phần thì có ba phần thọ lâu, ba phần chết sớm, ba phần có thể sống lâu nhưng chết sớm vì không biết dưỡng sinh, họ thụ hưởng đời sống vật chất thái quá. Lão Tử không cho rằng sống chết có “Định số“.

- Bà-la-môn giáo Ấn Độ thì Phạm thiên được cho là nguyên lý sáng tạo hay một Thượng đế hữu ngả. Do Thái giáo và Hồi giáo thì Chúa là đấng Toàn năng. Ki-tô giáo Jesus thờ Đức Ki-tô là đấng Chúa cứu thế. Theo Thánh kinh, vạn vật rốt cuộc cũng trở về với tình thương của Chúa. Vậy Chúa là điểm khởi nguyên và cũng là điểm cuối cùng.

- Phật giáo là tôn giáo “Tự lực” có nội dung chủ trương là dựa khả năng bản thân mình để giác ngộ. Trong 12 chi duyên khởi, không nêu ra chi nào là nguyên nhân tối sơ – chúng tạo nên bánh xe sinh hoá. Thời gian trong đạo Phật được mô tả là một vòng tròn không có khởi đầu, không có chấm dứt. Một sinh vật chết đi không phải là chấm dứt mà có một đời sống khác bắt đầu và sẽ trải qua một quá trình sống chết tương tự. Và cứ như vậy lặp đi lặp lại thành một vòng tròn sinh hoá vô tận. Trong biến dịch của dòng sinh hoá, thời gian thì tương tục không gián đoạn cho nên không thể xác định sinh vật đó là thứ gì vì nó luôn luôn tiến hoá và thay đổi qua 12 chi phần. Thông thường người ta xem chi phần vô minh là khởi đầu, vì vô minh tiếp diễn qua sự chết. Khi chết thì hình hài tan rã, nhưng vô minh vẫn tồn tại, vô minh được xem là sự kết tinh các hành động (nghiệp) mà sinh vật đó tạo tác trong cuộc đời của nó, bởi vì hành động là sự biểu lộ năng lượng vật lý và tâm lý và năng lượng tiềm tàng có thể nói là nghiệp cảm.

Trong Phật giáo, sự tiếp diễn của đời sống không xảy ra theo lộ trình tuyến tính, mà nó phát triển theo một đường tròn và đường tròn cứ diễn trình mãi mãi theo các chu kỳ khác nhau.

Sự tự lực hay sự tự tạo được qui kết do hành vi cá thể, nó không hề có quyết định của một “nhân cách” nào khác. Diễn trình tự tác tự thọ, nhân tốt thì quả tốt, nhân xấu thì quả xấu. Hành động trở thành một dẫn nghiệp, dịch chuyển trên đường tròn sinh hóa. Dẫn nghiệp có thể đưa một sinh vật thác sinh có thể trở thành làm thú, làm người hay làm trời.

Kinh Pháp cú dạy: “Tất cả chúng ta đều là kết quả của những gì chúng ta đã tư tưởng, nó nương tựa trên các tư tưởng của chúng ta” . Để có thể trực nhận được ý nghĩa ý của kinh ta phải thấy rằng tư tưởng hay ý chí vốn là tự do và bất định trong thế giới người, nó có thể xuất hiện trong hình thái từ dục vọng thú tính thấp hèn cho đến các hình thức cao hơn của sự sống dưới dạng các làn sóng nhấp nhô trong chuỗi liên tục tự tạo.

Previous Post
Next Post