Nói chung, Đức Phật ra đời thuyết
pháp độ sinh, cũng để chỉ rõ cho người nhận kỹ điều này, khiến người mở sáng
mắt đạo, thấy đúng lẽ thật nơi con người đang sống giữa cuộc đời này chứ gì?
Nghĩa là, sống mà không biết gì là Ta?
Ai đang sống đây? Thì sao gọi là
sống? Chính mình là chủ của cuộc sống, bao nhiêu thứ tạo tác cũng để vì mình,
mà hỏi đến: Mình là gì? Thì chới với, lúng túng đáp không xong, vậy cái gì sống
đây? Sống có ý nghĩa gì? Đó gọi là sống cũng như chết. Con người thông thường
cứ lo tìm biết điều này, điều nọ, biết cả trên sao Hỏa, sao Mộc, nhưng khi hỏi
đến: TA LÀ GÌ? Trả lời không thông, thử hỏi có thực tế chưa? Hòa Thượng có ví
dụ, một người chủ nhà, hỏi đến việc nhà người này, người khác thì trả lời vanh
vách, nhưng khi hỏi đến việc nhà mình thì ú ớ không thông, vậy là chúng ta sẽ
kết luận thế nào? Người đó có thực tế hay không?
Điều quan trọng nhất là, đối với
việc tu hành, nếu chúng ta không rõ được điều này cho chính xác thì tu hành khó
tiến được, có khi còn lầm lạc nữa là khác. Chẳng hạn, nếu không rành rõ, đem
cái ta giả dối này, làm cái nhân để tu cầu giải thoát thì càng tu e càng phiền
não thêm, hoặc càng tu, tính chấp ngã càng nặng thêm, tức cách xa con đường
giải thoát. Bởi lầm lẫn “nhân quả” tu hành, lấy cái nhân sinh tử làm giải
thoát, làm sao đến được giải thoát chân thật? Chính vì vậy, trước thời Phật ra
đời, ở Ấn Độ có nhiều vị tu hành rất công phu, có sức thiền định cao, nhưng vẫn
lẩn quẩn trong sinh tử. Như chuyện vị Phạm Chí Hắc Thị tu đắc năm thần thông,
thuyết pháp rất hay, đến cả trời Đế Thích cũng xuống nghe pháp. Song, một hôm
nghe vị ấy giảng xong, trời Đế Thích tỏ vẻ buồn bã rơi lệ. Phạm Chí thấy lạ bèn
hỏi:
- Ngài vì sao buồn khóc như thế?
Trời Đế Thích nói:
- Tôi nghe Ngài giảng pháp rất
hay, song tôi biết rõ tuổi thọ của Ngài chỉ còn bảy ngày nữa thôi.
Phạm Chí nghe xong hoảng sợ, xin
Trời Đế Thích cứu cho. Trời Đế Thích từ chối mà chỉ ông đến Đức Phật. Phạm Chí
bèn vội đến chỗ Phật, trên đường ông thấy hai cây ngô đồng đang trổ hoa đẹp,
liền dùng thần thông nhổ cả hai cây bưng trên hai tay đến cúng dường Phật. Phật
gọi tiên nhân Phạm Chí bảo:
- Hãy buông đi!
Phạm Chí liền buông cây hoa ngô
đồng trên tay trái. Phật lại bảo:
- Buông đi!
Phạm Chí buông tiếp cây hoa ngô
đồng trên tay phải. Phật lại bảo tiếp:
- Buông đi!
Phạm Chí liền thưa:
- Bạch Thế Tôn! Hai tay con đều
trống cả rồi, Ngài còn bảo con buông cái gì nữa?
Phật bảo:
- Ta chẳng phải bảo ông buông gốc
hoa đó, mà chính là bảo ông buông xả sáu
trần bên ngoài, sáu
căn bên trong và sáu
thức ở giữa kia kìa; tất cả một lúc buông sạch hết KHÔNG CÒN CHỖ NÀO ĐỂ
BUÔNG NỮA, ngay đó CHÍNH LÀ CHỖ ÔNG THOÁT KHỎi SINH TỬ.
Phạm Chí ngay đó liền tỏ ngộ pháp
vô sinh, lễ tạ Phật.
Như vậy, cho thấy rằng, dù tu đắc
năm thần thông mà chưa đạt lậu tận thông, tức sạch hết tình chấp ngã này, vẫn
chưa khỏi vòng sinh tử luân hồi. Vậy thì, ngay đây chúng ta hãy xác định rõ
xem: Cái gì là Ta? Cái thây thúi 60, 70 ký lô này chăng? Cái khối đen trắng,
mập ốm, cao thấp nầy chăng? Cái buồn thương, giận ghét, ích kỷ, kiêu căng hơn
thua, ta người này chăng?
Nếu cái Ta chỉ có bấy nhiêu đó,
thì cuối cùng sẽ ra sao? Tức là chung cuộc sẽ: Ô hô! Ra nghĩa địa!
Tổ Lâm Tế từng dạy: “Này huynh
đệ! Các ông chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn này, trong khoảng sớm chiều nó liền
trở về vô thường. Các ông nhằm trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát?
Tìm một miếng cơm ăn, một manh áo vá qua ngày ư? Cốt phải tìm hỏi bậc tri thức,
chớ lần lựa đuổi theo thú vui! Thời giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, thô thì
bị đất nước gió lửa, tế thì bị bốn tướng sinh trụ dị diệt”. Đó là Ngài nhắc nhở
cho người, phải tìm lấy một cái gì chân thật làm chỗ nương tựa vững bền lâu
dài, chớ bám vào cái xác thân mộng huyễn vô thường này, dù cố gìn giữ cách mấy,
cuối cùng cũng phải bỏ lại, tan hoại trả về với cát bụi! Người có thực tâm tu
hành có thể lơ là với việc này sao?
II. Chấp ngã là vô minh điên đảo
Chính vì sự mê lầm, chấp trước
lẫn lộn trái ngược trên đây, mà Đức Phật gọi chúng ta là vô minh điên đảo. Kinh
Viên Giác Phật từng định nghĩa vô minh như sau: “Phật bảo Bồ Tát Văn Thù: Nhân
địa tu hành từ xưa của Như Lai là y tánh Viên Giác thanh tịnh mà dứt hẳn vô
minh mới thành Phật. Thế nào là vô minh?… Tức tất cả chúng sinh từ vô thủy đến
nay, bị nhiều thứ điên đảo giống như kẻ mê, thấy bốn phương dời đổi, vọng nhận
tứ đại làm tướng tự thân, bóng dáng duyên nơi sáu trần làm tướng tự tâm… do đó
mà vọng có sự lưu chuyển trong sinh tử, nên gọi là vô minh”.
Tức là Đức Phật muốn chỉ, chúng
ta cứ chấp càn xác thân tứ đại giả hợp này làm ta, chấp bướng tâm suy nghĩ phân
biệt sinh diệt lăng xăng duyên theo bóng dáng sáu trần làm ta, đó gọi là vô
minh. Nghĩa là nhận cái sinh diệt tạm bợ làm ta, không vô minh là gì? Ta là cái
sinh diệt như vậy sao? Bài Tâm Kinh Bát Nhã đã nói ngay từ đầu “Bồ Tát thực
hành sâu Bát Nhã ba la mật đa, soi thấu năm uẩn đều không”. Là không thực có
cái Ta trong đó. Song đây cũng chỉ là danh tự, chúng ta phải soi thấu: “THẾ NÀO
LÀ KHÔNG?” bằng chính trí tuệ của chính mình mới là điều quan trọng. Đây chúng
ta hãy soi một cách đơn giản thế này:
- SẮC, là đối với tâm mà có, mà
tồn tại. Không có tâm, sắc này là xác chết thôi. Nói rộng ra, không có tâm thì
cái gì biết sắc? Dù có sắc, sắc đó cũng như không, cũng là thế giới chết chứ
gì. Do đối đãi mà thành, tự nó không có thật thể cố định, đó là sắc tức không
rõ ràng không nghi.
- THỌ, đối với cảnh bị thọ mà có,
tức luôn luôn có thọ một cái gì. Nếu không có đối tượng để thọ, thì thọ mất
bóng, rõ ràng nó không có tự thể hằng hữu, thọ tức là không.
- TƯỞNG, cũng luôn luôn tưởng một
cái gì, phải có đối tượng để tưởng. Chúng ta thử tưởng một cái gì không có đối
tượng để tưởng xem! Làm sao tưởng? Tưởng liền mất dấu ngay. Rõ ràng “tưởng tức
không”, nghĩa là không có thực thể của nó, chỉ đối duyên mà tạm có thôi.
- HÀNH, tứ niệm niệm thầm kín bên
trong, cũng luôn luôn là có niệm một cái gì đó, không đối tượng để niệm thì
niệm cũng bặt, làm sao bảo nó thật có được.
- THỨC, là phân biệt, cũng luôn
luôn có đối tượng để phân biệt. Có phân biệt là phải có phân biệt cái gì. Không
thể có cái phân biệt khơi khơi. Rời đối tượng phân biệt, thức bám vào đâu để
tồn tại? Hiểu thấu chỗ này thì chúng ta thấy đầu mối tu hành dễ dàng. Anh ngồi
thiền suy nghĩ thì cứ suy nghĩ, nhưng hãy nghĩ xem! Làm sao suy nghĩ? Ngay đó
tức nó lặng ngay thôi.
Xét tột năm uẩn như thế, thì cái
ta bám vào chỗ nào? Tuy nhiên, giờ đây hãy gạt ra những kiến thức hiểu biết lâu
nay đi, rồi chính ngay trong năm uẩn này chỉ ra xem: Cái gì là Ta? Xét cho thật
kỹ, không phải chỉ hiểu suông, mà chiếu soi thật sự bằng chính con mắt tâm của
chính mình! Ta, chỉ là một khái niệm chứ gì! Ai cũng cứ TƯỞNG CÓ MỘT CÁI MANG
TÊN TA, nó ngự trị trong thân này, nó làm chủ cuộc sống nay. Do bám vào cái NGÃ
TƯỞNG đó mà sinh ra cống cao, ngã mạn, giành giựt hơn thua … tạo thành trăm
ngàn, muôn thứ nghiệp, rồi chịu khổ luân hồi dài dài. Phật gọi đó là Tập Nhân
của khổ. Chừng nào cái Tập Nhân này còn, là còn khổ mãi, còn đi trong sinh tử
không dừng. Có một bà già đến hỏi Hòa Thượng Triệu Châu:
- Con mang thân nữ bị năm dây
ràng buộc gây chướng ngại cho Phật tánh, làm sao thoát ly được những triền
phược ấy?
Sư bảo:
- Bà hãy nguyện cho tất cả mọi
người đều sinh lên cõi trời. Còn thân hèn này nguyện tiếp tục chịu trầm luân
một mình trong biển khổ.
Đó là cách thuyết pháp đặc biệt
của Thiền Sư. Mới nghe qua, ai cũng lấy làm lạ, nhưng chính đó là lời đáp vi
diệu. Bởi người cứ chấp chặt vào cái Ta này, mang thân nữ liền bám chặt vào
tướng nữ, mang thân nam liền bám chặt vào tướng nam, thân đui mù, què quặt vẫn
bám chặt vào nó không thể buông, do đó chịu khổ chứ gì! Giờ đây, phát nguyện
như thế, tức là quên mình, QUÊN CÁI TA NÀY, chỉ nghĩ đến người, biết có người
thôi. Đã quên ta, KHÔNG THẤY CÓ TA thì lấy cái gì để khổ? Khổ bám vào đâu? Ngay
đó liền hết khổ! Đó là cách đáp khéo léo mà xác đáng vô cùng!
Hiểu như vậy rồi, chúng ta hiểu
thêm, từ chấp ta đó, kéo theo chấp cái của ta, tức ngã sở, cũng không dễ gì
buông, có lúc còn muốn đậm hơn nữa. Trong nhà Thiền có câu chuyện: Có vị tướng
quân đã chán việc chiến trường đến Thiền Sư Đại Huệ xin xuất gia. Ông thưa với
Sư:
- Bạch thầy! Hiện tại con đã trừ
sạch niệm hồng trần, xin thầy từ bi thu con xuất gia, cho con làm đệ tử của
thầy.
- Ông có gia đình, có tập khí
ngoài đời nặng nề, ông chẳng thể xuất gia, hãy thong thả từ từ!
Ông thưa:
- Bạch thầy, hiện tại cái gì con
đều bỏ được cả, vợ con thê thiếp, gia đình đều không thành vấn đề đối với con,
xin thầy cho con xuất gia ngay.
Sư vẫn bảo:
- Hãy thong thả từ từ!
Ông đành chờ. Một hôm, ông dậy
rất sớm đến trong chánh điện lễ Phật. Ngài Đại Huệ thấy, bèn hỏi:
- Tướng quân vì sao dậy sớm đến
lễ Phật như thế?
Ông bắt chước dùng thi kệ thiền
ngữ để đáp:
Vì trừ lửa trong tâm,
Dậy sớm lễ Sư trưởng.
Ngài Đại Huệ bèn cười, dùng kệ
đáp lại:
Dậy sớm như thế ấy,
Chẳng sợ vợ ngủ người.
Ông vừa nghe, liền nổi giận mắng:
- Lão quái này, sao nói năng xúc
phạm đến người quá vậy!
Thiền Sư Đại Huệ liền cười ha hả,
bảo:
Nhè nhẹ phẩy chiếc quạt,
Tánh lửa đã bừng lên.
Nóng nảy hừng như thế,
Sao bảo buông xuống xong?
Đây là cho thấy, bên ngoài bình
thường chưa đụng cảnh, chúng ta cứ tưởng mình đã sạch chấp, đã không còn dính
mắc, nhưng trong âm thầm tình chấp ngã, ngã sở vẫn còn ngủ ngầm đó, gặp cơ hội
nó liền hiện lên. Do đó trong nhà thiền thường nhắc nhở phải “hạnh giải tương
ưng”, hiểu và hành phải thật khế hợp, không thể chỉ hiểu suông cho là đủ.
Chuyện thứ hai, Hòa Thượng Kim
Bích Phong sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi tham ái, chỉ thích một cái bát bằng
ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước khi ngồi thiền định, Sư đem cái bát cất kỹ
gần bên mới an tâm. Có lần, nhân tuổi thọ Sư đã hết, vua Diêm La sai Quỷ đến
bắt Sư. Song Sư cũng biết thời đã đến, mỉm cười ngồi nhập định, xem vua Diêm La
làm gì. Quỷ đến bên cạnh Sư, đợi 1 ngày, 2 ngày … không thể bắt Sư, bèn đi hỏi
ý thổ địa. Thổ địa bảo:
- Thiền Sư Kim Bích Phong này rất
thích cái bát ngọc, nếu ngưoi có cách đem cái bát ấy di, Ngài động niệm sẽ xuất
định.
Quỷ nghe nói, liền nhanh đến chỗ
đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe tiếng cái bát động, động niệm liền xuất
định giữ lại! Quỷ thấy Sư xuất định, liền vỗ tay cười to:
- Hay đấy! Giờ đây xin mời Ngài
theo tôi đến gặp vua Diêm La.
Thiền Sư Kim Bích Phong vừa nghe
lời quỷ, biết rõ do tâm tham ái cái bát, làm mất đi huệ mạng ngàn năm của mình,
liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập định trở lại và để bài kệ:
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong,
Trừ phi thiết luyện tỏa hư không.
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ,
Tái lai nã ngã Kim Bích Phong.
Tạm dịch:
Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong,
Trừ khi sắt luyện khóa hư không.
Nếu hay khóa được hư không ấy.
Trở lại bắt ta Kim Bích Phong.
Đó là vì có chút tình luyến ái
vật sở hữu mà tâm bị động, tâm động liền có tướng hiện, tức bị quỷ thần xem
thấy. May là Sư còn có sức định tỉnh mạnh, nếu không đã bị quỷ dẫn đi mất rồi!
Chỗ này CÓ THỂ DÙNG LÝ LUẬN ĐẾN ĐƯỢC SAO?
III. Tinh thần vô ngã của đạo Phật
Hiểu qua điều lầm lẫn chấp ngã
trên rồi, chúng ta lại phải thấu triệt tinh thần vô ngã của Phật dạy. Bởi vì,
người đi vào đạo Phật đều phải đi qua cửa này. AI CHƯA ĐI QUA CỬA NÀY, đừng vội
nói đến giải thoát làm gì cho nhọc miệng, cũng đừng vội vỗ ngực nói to!
1. Thế nào là vô ngã?
Chúng ta thường nghe nói vô ngã,
vậy đó là vô cái ngã gì? Có cái ngã để vô hay không? Đây là điều phải xét cho
thật thấu đáo. Bởi, có Ta thì mới vô, tức là không nó, phá nó; còn không có gì
là Ta thì vô cái gì? Phá cái gì? Phá ngã, thì phải có cái ngã vị phá. Cho nên,
chúng ta phải hiểu, đây là nhằm trừ cái ngã tưởng cho người, nghĩa là nó không
thật có, mà tưởng là có, vì vậy nói không, để trừ cái “tưởng” đó. Bởi nói là
“tưởng” tức nó không thật có, dùng trí tuệ thấy đúng lẽ thật thì sẽ hết chấp,
hết lầm.
Nên nói trừ mà thật không có gì
để trừ. Nếu thật có cái ngã để trừ, thì trừ nó bỏ đi đâu? Không khéo lại sinh
thêm cái NGÃ MỚi để trừ cái ngã này, vẫn lẩn quẩn trong vòng ngã tưởng. Kinh
Kim Cang đã nói: “Nói ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Tức chẳng phải ngã, nhân,
chúng sinh, thọ giả, đó gọi là ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả”. Tức là chớ lầm
theo tiếng gọi, nghe nói tên “ngã” liền tưởng thật có cái ngã, rồi sinh tâm trừ
nó, đó là lọt vào lưới danh từ, ngôn ngữ. ĐEM NGÃ DẸP NGÃ,vẫn chưa rời dấu vết
tướng ngã. Đó là điều phải khéo thấy.
2. Nói vô ngã để nhắc người tu hành trừ tham ái thân này.
Đây là trừ chấp thân. Bởi ái thân
tức ái ngã, đó là nguồn luân hồi trong sinh tủ. Vì ái thân, mến luyến nó quá,
nên mất thân này tìm thân khác, nghĩa là luôn luôn tìm cái để tựa. Chính vì bám
chặt vào nó, nên khi mất nó, liền khổ! Ai đụng tới nó liền sân, liền tự ái. TỰ
ÁI LÀ GÌ? Tức là ĐỤNG TỚi CÁI TA NÀY chứ gì? Nếu không có ta, cái gì tự ái? Do
đó xét kỹ, người nhiều tự ái, tức là nặng về cái ta, phải không?
Thấy thấu chỗ này, chúng ta mới
thấy cái lầm sâu dày của mình. Người tu hành không giải thoát được, không hết
khổ, cũng vì còn bám vào chỗ này. Buông chỗ này liền cảm nhận niềm vui giải
thoát ngay hiện tại đây thôi. Chuyện ngài Phá Táo Đọa: Sư không biết tên gì,
nhân vùng gần Tung Sơn có ngôi miếu thờ ông Táo rất linh, người đến giết vật
cúng tế thường xuyên. Một hôm, có vị Thiền Sư, sau này gọi là Phá Táo Đọa, dẫn
nhóm đệ tử đi vào trong miếu. Sư đến chỗ thờ ông Táo, lấy gậy gõ vào đó ba cái
bảo: Bếp ơi! Đây là ngói gạch hợp thành, thánh từ đâu lại, linh từ đâu đến mà
ngươi đòi chuộc mạng nhiều sinh vật như thế?
Nói xong, Sư gõ nấy cái nữa thì
cái bếp ấy liền ngã đổ. Sư bèn dẫn nhóm đệ tử đi ra. Thầy trò đi được một quãng
đường, chợt có vị mặc đồ xanh như là quan đến lễ trước Sư, Sư hỏi:
- Ông là ai?
Vị đó thưa:
- Con là thần Táo ở ngôi miếu
kia, vừa rồi con được Hòa Thượng khai thị pháp vô sinh nên được giải thoát kiếp
táo, sinh về cõi trời, do đó con đến tạ ơn Hòa Thượng.
Sư bảo:
- Vô sinh là tánh sẵn có của
ngươi, chẳng phải nhờ ta thuyết pháp.
Vị ấy bèn lạy rồi biến mất. Vị
tăng thị giả thắc mắc hỏi:
- Chúng con theo hầu Hòa Thượng
nhưng chưa hề được nghe Hòa Thượng giảng pháp, ông thần Táo này được nghe pháp
gì mà chóng sinh lên cõi trời như vậy?
Sư bảo:
- Ta chỉ nói với y là: “DO NGÓI
GẠCH HỢP THÀNH, LINH TỪ ĐÂU LẠI, THÁNH TỪ ĐÂU ĐẾN” vậy thôi chứ không có đạo lý
gì khác.
Như vậy đâu là pháp vô sinh mà
ông thần Táo ngộ nhanh thế? Bởi Thần Táo không chỗ tựa nương, vọng bám vào mấy
cục gạch của cái bếp trong miếu, lấy đó làm thân mình, rồi đòi người giết sinh
vật cúng tế, lại càng tạo nghiệp dữ thêm, nên không đi đâu nổi. Bị mấy cục gạch
đó nó cột một cách đáng thương! Chúng ta hiện tại cũng giống như vậy, cứ bám
vào mấy cục thịt, mấy đốt xương, mấy sợi gân … đấy mà giết vật này, giết vật
kia cúng nó, rốt cuộc nó cũng tan rã, trở về với cát bụi, còn nghiệp dữ kia tự
mình phải đành mang lấy sang kiếp khác để chịu khổ, có đau đớn chăng?
Lo nuôi nó, nhưng nó vẫn bỏ mình,
để mình riêng chịu khổ, vậy còn chưa tỉnh hay sao: Do đó ông thần Táo kia, khi
được Thiền Sư đánh thức: “CÁI NÀY LÀ DO NGÓI GẠCH HỢP THÀNH THÔI, CÁI LINH TRI,
CÁI THÁNH SÁNG SUỐT HÁ LÀ VẬT VÔ TRI ĐÓ SAO, MÀ PHẢi ĐÒI NGƯỜi TA CÚNG TẾ BẰNG
BAO NHIÊU MẠNG SỐNG CỦA NHỮNG SINH VẬT ĐÁNG THƯƠNG KIA!” Nghe vậy, thần Táo
liền tỉnh ngộ, mình là thần, tức sáng suốt, đâu phải mấy cục gạch đó, liền
buông mấy cục gạch này, ngay đó tức giải thoát kiếp táo chứ gì! Buông chỗ nương
này, liền ngộ tự tánh xưa nay chưa từng sinh diệt, chưa từng thiếu vắng, đó là
pháp vô sinh chớ có gì khác nữa đâu! Cho nên, nếu cứ bám chặt vào cái ngã mập
ốm, mấy chục ký lô này, là đi mãi trong luân hồi, tạo nghiệp chịu khổ đời đời
không dứt. NGƯỜi TU GIẢi THOÁT CHỚ CÓ LẦM LẪN!
3. Vì trừ thành kiến chấp trước.
Đây là phá chấp tâm. Nghĩa là lâu
nay chúng ta sống với những cái “THẤY BIẾT” MANG ĐẬM MỘT CÁI TA chen vào trong
đó; bởi vậy hễ thấy biết gì là chấp chặt vào điều thấy biết đó, không chịu
buông, dù là thấy biết sai lầm cũng cố bảo vệ nó tới cùng. Vì sao vậy? Vì sợ
mất cái Ta! Song chân lý vốn không có riêng tư, không có ranh giới; nhưng khi
bị cái Ta chen vào, nó liền chia chẻ chân lý thành mảnh mún, biến lẽ thật thành
ra có đây kia, có lẽ thật của ta, có lẽ thật của anh, tạo thành sự cách biệt
nhau.
Chẳng hạn, tôi thấy ngọn núi nầy
cao, người kia thấy là thấp, bởi vì trong đầu tôi ít thấy ngọn núi nào cao hơn
ngọn núi này; trái lại, trong đầu người kia đã từng thấy nhiều ngọn núi cao hơn
ngọn núi này xa. Song, núi vẫn là núi, nó không tự nói là cao, không tự nói là
thấp. Rõ ràng là chúng ta lấy cái ta mà đo lường tất cả người, bắt người phải
thấy theo ta. Có câu chuyện ngụ ý: Một tên tướng cướp có một cái giường đặc
biệt, hễ bắt được ai, y đem đặt lên giường đó, nếu dài hơn thì lấy dao chặt
bớt, nếu ngắn hơn thì cố kéo rút cho dài ra bằng cái giường này.
Đây là ngầm chỉ, người chỉ lấy
cái Ta mà đo kẻ khác theo cái khuôn của mình, bắt kẻ khác phải theo cái Ta này,
chính vì vậy mà luôn làm đau khổ cho nhau; vì mỗi người đều có nghiệp riêng đâu
giống ta được. Hiểu rõ bằng trí tuệ chân thật, Ta chỉ là một khái niệm tưởng
tượng; thấy biết do huân tập sai khác mà thành có hiểu sai khác, thì thông cảm
cho nhau để tìm về chỗ chân thật không hai, đó mới là điều quý. Trong kinh Niết
Bàn có kể câu chuyện: Một ông vua muốn thử những người mù, ông sai đem con voi
đặt trước sân, gọi mấy người mù rờ xem rồi tả lại cho ông nghe hình dáng con
voi thế nào? Người rờ trúng tai voi bảo: Con voi giống cái quạt. Người rờ trúng
chân voi, bảo: Con voi giống cây cột. Người rờ trúng bụng bảo: Con voi giống
cái lu. Người rờ trúng đuôi voi, bảo: Con voi giống cây chổi. Rồi cãi nhau mãi,
ông vua chỉ cười thôi.
Như vậy, vì sao mà họ tranh cãi?
Chỉ vì chỗ thấy chưa trọn vẹn, dù mỗi người có chạm đến con voi thật sự, nhưng
chỉ chạm một bộ phận, một góc cạnh, nên chỗ biết cũng hạn hẹp và có sai biệt,
do đó thành tranh cãi nhau. Trong khi đó, nếu là ông vua thấy toàn thể con voi
rõ ràng trước mắt thì sao? CHỈ CƯỜi THÔI! Nếu như ông vua cũng nhảy vào tranh
cãi với những người mù ấy thì thế nào? Cũng mù theo luôn phải không? Bởi còn
ham cãi là còn tâm hơn thua, còn mang nặng tình chấp ngã, sợ ta sai, ta kém!
Trái lại, đã thấy suốt rồi, đâu còn sợ sai mà cãi? Như chuyện Hiệp Sơn và Định
Sơn. Hai vị cùng đi đường bàn chuyện với nhau, Định Sơn nói:
- Trong sinh tử, không Phật tức
phi sinh tử.
Hiệp Sơn nói:
- Trong sinh tử, có Phật tức
chẳng mê sinh tử.
Hai người lên núi Đại Mai lễ
Thiền Sư Pháp Thường, Hiệp Sơn đem câu nói của hai người thuật lại cho Sư nghe
và hỏi:
- Chưa biết chỗ thấy của hai
người, ai được gần?
Sư bảo:
- Một gần một xa.
- Ai được gần?
- Hãy đi, sáng mai trở lại!
Sáng hôm sau, Hiệp Sơn lại đến
hỏi Sư. Sư bảo:
- Người gần thì chẳng hỏi, người
hỏi thì chẳng gần.
Thấy đau chưa? Bởi cứ lo tới
trước hỏi ai đúng. Là muốn mình hơn, sợ mình sai, cho nên không gần được đạo.
Trái lại, người đạt lý rõ ràng không nghi thì nói ra tự tin chắc, lo gì phải
hấp tấp đi hỏi đúng sai? Còn KẸT TRONG NIỆM ĐÚNG SAI như thế, quả tang là người
CÒN ĐỨNG NGOÀI cửa rồi! Đây là một kinh nghiệm cho người còn ưa tranh cãi lý
luận, còn nặng về tình đúng sai, cần nghiệm kỹ!
4. Vì trừ ngã mạn, kiêu căng, cống cao, ngạo nghễ.
Bởi xét tột lý: Cái gì là ngã
mạn? Cái gì kiêu căng? Kiêu căng cho ai? Cho cái cục thịt 60, 70 ký lô này
chăng? Cho cái khối mập ốm, đen trắng này ư? Nếu vậy, khi chết nó nằm cứng đơ
hoặc bệnh nằm liệt giường thì còn gì để kiêu căng, ngã mạn? Do đó, học đạo mà
mang nặng tâm này thì làm sao học đến chỗ chân thật? Chính vì vậy, mà trong nhà
Thiền thường đánh phá, thử thách cho nó xẹp bớt, nhẹ bớt, mới dễ tiếp nhận lẽ
thật. Lâm Tế ba lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị Hoàng Bá đánh, nếu lúc đó tự
ái, nổi giận oán hờn thì có làm Tổ được chăng?
Huệ Nam ở Hoàng Long, lúc làm thư
ký từng lãnh đồ chúng, có tiếng tăm, khi đến trong Pháp hội Ngài Từ Minh, vào
thất thưa hỏi chỉ bị Từ Minh mắng chửi. Sư hổ thẹn nhìn những người bên cạnh
nói:
- Chính vì chưa hiểu mới cầu
quyết nghi, mắng đâu phải quy củ từ bi thí pháp!
Từ Minh cười bảo:
- Đó là mắng chửi sao?
Ngay câu này, Sư liền đại ngộ.
Vậy mắng chửi đó là mắng chửi cái
gì? Đó là đập vào cái ta hiểu biết này, cái ta kiến giải này, cho nó hết chỗ
nổi phồng lên, rồi khêu nhẹ mới liền sáng tỏ!
Lục Tổ mới đến Ngũ Tổ, Ngũ Tổ
hỏi:
- Ngươi là người từ xứ nào đến?
Đến đây lễ ta để cầu việc gì?
Sư đáp:
- Đệ tử từ Lãnh Nam đến lễ bái
Hòa thượng chỉ cầu làm Phật, không cầu gì khác.
Ngũ Tổ bảo:
- Ông là người Lãnh Nam , là xứ mọi
rợ, làm sao kham làm Phật?
Nếu Lục Tổ ngay đó tự ái bỏ ra về
thì có làm Tổ được chăng? Hoặc chúng ta đang ngồi thiền yên lặng tâm thanh
tịnh, chợt nhớ đến “hồi sáng anh ấy nói nặng ta!”, thì sao? Tức liền mê ngay!
Đây là một lẽ thật sáng ngời, cần thấu rõ không thể hời hợt bỏ qua!
5. Nhằm đưa người vươn lên, chuyển hóa.
Chính tinh thần vô ngã giúp chúng
ta thấy rõ, chúng sinh không có cái ngã chúng sinh cố định, Phật cũng không có
cái ngã Phật cố định, phiền não sinh tử cũng không có cái ngã phiền não chúng
sinh cố định, Bồ Đề Niết Bàn cũng không có cái ngã Bồ Đề Niết Bàn cố định. Do
đó mới có chuyển hóa chúng sinh thành Phật, chuyển phiền não thành Bồ Đề; nếu
chúng sinh đã cố định rồi, Phật đã cố định rồi thì còn mong gì chuyển thành
Phật được! Tiệm Nguyên với Ngài Đạo Ngô đến nhà Đàn Việt điếu tang, Tiệm Nguyên
liền vỗ vào quan tài nói:
- Sinh ư? Tử ư?
Đạo Ngô bảo:
- Sinh cũng chẳng nói, tử cũng
chẳng nói.
Tiệm Nguyên hỏi:
- Vì sao chẳng nói?
Đạo Ngô bảo:
- Chẳng nói, chẳng nói.
Hai thầy trò về giữa đường, Tiệm
Nguyên hướng về Đạo Ngô nói:
- Thầy hãy vì con nói, nếu không
nói con đánh thầy.
Đạo Ngô bảo:
- Đánh thì cứ đánh, còn nói thì
không nói.
Tiệm Nguyên liền đánh.
Đạo Ngô bảo:
- Ông hãy tìm nơi khác, nếu Tri
Sự biết được e khó cho ông.
Tiệm Nguyên bèn bỏ đi, đến ngôi
chùa nhỏ dưới núi, một hôm nghe người tụng Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa đến
đoạn: “Nên dùng thân tỳ kheo được độ, liền hiện thân tỳ kheo mà vì nói pháp…”
Sư liền tỏ ngộ.
Tiệm Nguyên thắc mắc hỏi: Sinh ư!
Tử ư? Nếu thật cố định là sinh, là tử, sao Đạo Ngô không nói xác định đi? Bảo
“Chẳng nói, chẳng nói” là có đáp chưa? Nếu Tiệm Nguyên nhanh mắt, ngay đó liền
rõ sinh tử không thể nói, ngay sinh tức vô sinh thì hay biết mấy, đâu phải nhọc
nhằn đến nơi khác! Khi nghe đến Phẩm Phổ Môn liền ngộ, là ngộ cái gì? Bồ Tát
Quán Thế Âm có 32 ứng thân, vậy thân nào là thân thật của Bồ Tát? Thân đó hiện,
thân đó mất, Ngài có thật mất chăng? Vậy có gì là cố định thật?
Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã có đoạn
Phật dạy: “TẤT CẢ CHÚNG SINH XƯA NAY THANH TỊNH. GIẢ SỬ KHIẾN CHO CHƯ PHẬT Ở TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP XƯỚNG NÓI: “CHÚNG SINH
CHÚNG SINH”, MÀ KHÔNG QUYẾT ĐỊNH THẬT CÓ CHÚNG SINH CÓ THỂ ĐƯỢC!” Cho thấy, dù
Phật có nói tên chúng sinh, nhưng không phải do nói đến tên đó mà thành chúng
sinh thật. Nên nói: “Mê là chúng sinh, giác tức Phật”, cả hai đều là tên, thể
đó vốn không hai, không phải có một cái thể Phật riêng. Vậy nói chúng sinh
nhưng đâu phải là chúng sinh mãi! Mê đâu phải mê mãi! Mê vĩnh viễn!
Nếu thế thì hết tu hành, vì dù có
tu cũng không đổi được. Sự thật, nếu người khéo quán chiếu trở lại nguồn tâm,
mở sáng mắt trí tuệ thì hết mê. Hết mê tức là giác. Đã giác thì hết tên chúng
sinh, mà chuyển thành tên Thánh, tên Phật! Đó là một con đường vươn lên, một
sức mạnh để tu hành chuyển hóa: Trừ tâm niệm mặc cảm mình làm chúng sinh ngu si
mãi! Mình nghiệp chướng sâu dày hết còn mong gì tu hành nữa! Đây là ý niệm nguy
hiểm, khiến người thoái hóa, chôn vùi mình mãi mãi trong tội lỗi. Vì vậy, vô
ngã là một diệu lý sâu xa, không dễ gì LÝ LUẬN QUA LOA mà hiểu hết, chỉ phải
THỰC SỰ SỐNG TRONG ĐÓ mới tự cảm nhận không thể nghĩ bàn. Nếu chỉ hiểu vô ngã
là không có ta thật, có gì dính dáng? Cho nên vô ngã, cuối cùng đưa đến vô sở
đắc, sạch hết mọi chỗ được, mọi kiến giải đã có.
Thiền sư Linh Huấn ở với Ngài Quy
Tông một thời gian, khi từ giã đi, Quy Tông hỏi:
- Ông đi đâu?
Sư thưa:
- Con về Lãnh Trung.
Quy Tông bảo:
- Ông ở đây nhiều năm, sửa sang
hành lý xong hãy đến đây, ta sẽ nói cho một câu Phật pháp cao tột.
Sửa sang hành lý xong, Sư đến
trước Quy Tông, Quy Tông bảo:
- Lại gần đây!
Sư đến gần, Quy Tông bảo:
- Trời lạnh, đi đường hãy bảo
trọng!
Sư nghe lời này, liền quên chỗ
hiểu trước.
Vậy Phật pháp cao tột ở chỗ nào?
Chúng ta nghe nói Phật pháp cao tột, liền tưởng là một câu gì đó khác thường,
một đạo lý thật cao siêu, không ngờ chỉ một câu nói bình thường, giản dị, tâm
mong muốn để hiểu liền dứt! Nên nói: “QUÊN CHỖ HIỂU TRƯỚC”. Đây là chỗ người
học thiền chân thật không thể hời hợt bỏ qua! Còn thấy TA NGỘ, TA ĐƯỢC là còn
phải xét lại!