Như gã nghèo trong thí dụ của
phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký của kinh Pháp Hoa, cứ đi lang thang từ nơi này đến
nơi khác để tìm kế sinh nhai mà không hề hay biết rằng ở trong chéo áo của mình
vốn có một viên ngọc quý, giá đáng liên thành. Cũng vậy, con người lăn lóc
trong ba cõi sáu đường, tạo nghiệp, thọ khổ vẫn không hề hay biết rằng mình vốn
có khả tính giác ngộ và giải thoát.
Là một con người, thường thì sinh
ra, trưởng thành, tạo dựng sự nghiệp, lập gia thất, có con cái, cháu chắt, già
nua, rồi qua đời, kết thúc sự hiện hữu của một kiếp người trong thân phận lầm
lũi của chúng sinh. Đa phần trong số ấy, khi cuộc sống có gặp phải những khổ
não, thì hoặc là tìm cách trốn chạy trong những hình thái cứu rỗi của thế giới
thần quyền, hoặc là mặc nhiên chịu đựng như một thứ định mệnh tất yếu không thể
tránh khỏi. Đối với người bình phàm, mục đích của đời người không vượt qua
những thành tựu tương đối về mặt danh vọng địa vị xã hội, về mặt vật chất của
cải, về những dục vọng bản hữu của một chúng sinh. Hạnh phúc là một từ ngữ dù
mang tính mơ hồ trừu tượng, nhưng lại là một diễn dịch cụ thể đối với mục tiêu
của cuộc sống con người.
Trong đời sống thường nhật, hạnh
phúc thường xuyên là cái gì để được vươn tới hơn là cái gì đang được thọ nhận.
Khi còn trẻ đang đi học, hạnh phúc sẽ là được làm bác sĩ. Khi làm bác sĩ, hạnh
phúc sẽ là kiếm ra được nhiều tiền, được mọi người kính trọng. Khi kiếm ra được
nhiều tiền, hạnh phúc sẽ là một đời sống giàu sang sung túc, v.v... Cứ thế,
hạnh phúc luôn luôn ở phía trước để con người phải cố gắng vươn tới mà thành
đạt. Nhưng một khi hướng tâm vươn tới cái gì đó thì quên đi tất cả những gì
mình đang có, đang thọ nhận.
Cho nên, hạnh phúc, như vậy, chỉ
là tên gọi suông, là ảo tưởng không bao giờ hiện thực. Hiện thực của đời sống
là những giây phút của bận rộn, vất vả, cố gắng, mệt nhọc, lo lắng, suy tư,
phiền muộn, biếng nhác, gian trá, thù hận, vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn, tham
lam,v.v... Những hiện tượng của đời sống đó, hiện hữu như những đợt sóng nhô
lên, xô tới, rồi lặn xuống, mất đi. Đợt sóng này qua, đợt sóng khác xuất hiện.
Không một phút giây nào mà con người không bị xô đẩy bởi vô số những cơn sóng
được tạo tác từ những ngọn gió tham, sân, si.
Có người nói rằng, giây phút vui
vẻ, sung sướng, thỏa mãn đó chính là hạnh phúc! Nếu quả thật vậy thì mục đích
mà đời người nỗ lực để vươn tới quá mong manh, quá tạm bợ, quá ngắn ngủi! Trong
những giây phút vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn đó, con người có thật sự cảm
nghiệm một cách chân xác và toàn vẹn sự vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn như chính
nó đang diễn ra? Rất hiếm ai có thể làm được như vậy! Đa phần người ta không
thật sự sống trọn vẹn cho giây phút phù du ấy. Con người luôn luôn sống hời
hợt, qua loa trước tất cả mọi sự cố xảy ra trong đời mình, có chăng chỉ là
những giây phút hoài niệm dĩ vãng, lôi kéo quá khứ, mời gọi tương lai về sống
cho hiện tại. Bản chất của vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn ấy chứa đựng nhiều mâu
thuẫn.
Thứ nhất, chúng thật ra chỉ là
những cảm quan mang đầy tính chủ quan của từng người. Vì có thể đối với người
này, nó là vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn, nhưng đối với những người khác thì lại
không. Thứ hai, chúng là sản phẩm của vô minh và tham ái được tạo dựng trong
một tâm thức vọng động và điên đảo, cho nên, con người sẽ không bao giờ biết đủ
để dừng lại trước những cám dỗ của dục lạc thế gian qua các hình thái vui vẻ,
sung sướng, thỏa mãn. Thứ ba, vì nó sinh khởi từ vô minh và các phiền não như
tham, sân, si, cho nên, nó thường trực chứa đựng mầm mống của bất an và khổ
não. Cũng vì thế, bản chất của vui vẻ, sung sướng, thỏa mãn, tự nó thật ra
không vui vẻ, sung sướng và thỏa mãn tí nào cả.
Giữa cái khổ và cái vui tạm bợ
kia, con người đôi khi trong chừng mực nào đó vẫn còn có cơ hội để chọn lựa.
Nhưng, cái già, bệnh và chết thì không ai có thể tránh khỏi. Chúng vốn ở ngay
trong bản chất của sự hiện hữu của thân phận con người. Chính vì vậy, đã có
sinh thì ắt phải có già, bệnh, chết. Sự có mặt tất yếu của già bệnh chết không
phải chỉ nói lên bản chất vô thường của pháp hữu vi, mà điều quan trọng hơn đối
với con người là nó cho thấy cái giới hạn không thể vượt qua, cái bất toàn
không thể bù đắp, và cũng qua đó chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về cái khổ đau
thống thiết của kiếp nhân sinh!
Cuộc đời như thế thì quả đúng như
lời đức Phật dạy trong kinh Pháp Cú, phẩm Lão, kệ thứ 146:
“Làm sao vui cười, có gì thích
thú, khi ở trong cõi đời luôn luôn bị thiêu đốt? Ở trong chỗ tối tăm bưng bít,
sao không tìm tới ánh quang minh?”
Dõi theo bước chân của chúng sinh
trên các nẻo đường sinh tử từ vô thỉ kiếp đến nay là vô minh và các phiền não.
Cho nên, con người luôn luôn bị buộc trói và vây kín trong cái thành trì tối
tăm và nhỏ hẹp của bản ngã vị kỷ, của tham lam, thù hận, tật đố và nghi kỵ. Ở
trong môi trường ấy, mọi hành tác của thân, miệng, ý đều bị điều động bởi vô
minh và các phiền não, để dẫn đến con đường tạo nghiệp rồi thọ khổ. Mê hoặc và
khổ lụy này làm nhân duyên cho mê hoặc và khổ não khác. Cứ thế, con người chạy
quanh trong cái vòng tròn tử sinh đau khổ, từ kiếp này sang kiếp khác, từ cõi
này đến cõi nọ. Như vậy, nếu con người chưa đốn phá được vô minh và diệt trừ
phiền não thì cuộc đời là tù ngục trong đêm dài tăm tối.
Quả thật vậy, tri thức thường
nghiệm mà con người đang tự hào đó vốn cưu mang nhiều điều bất toàn. Nó là cái
tập hợp nhận biết giới hạn của ngũ quan và ý thức. Mắt, tai, mũi, lưỡi và thân
chỉ nhận biết được các pháp qua sự tiếp xúc trực tiếp và hiện tiền trong một
khoảng không gian và thời gian rất hạn cuộc, bởi vì sự tiếp xúc chỉ có thể xảy
ra khi nào có sự hiện hữu đồng lúc và tại cùng một điểm không gian của căn,
cảnh và thức. Cái nhận thức của ngũ quan, do đó, không thể xảy ra trong quá khứ
hoặc tương lai, cũng không thể xảy ra ở bất cứ dị điểm không gian nào khác. Ý
thức cũng là tập hợp của những nhận thức do kinh nghiệm tích tập. Ý thức không
thể nhận biết một pháp nào mà nó chưa từng có kinh nghiệm biết đến. Cho dù là
lông rùa sừng thỏ đi nữa, ý thức cũng đã có kinh nghiệm nhận biết, nhận biết về
cái lông, con rùa, cái sừng, con thỏ.
Một con người với cấu trúc giới
hạn của ngũ quan, não bộ và ý thức, với môi trường sinh sống hạn cuộc trong một
khoảng không gian và thời gian, cho nên, tri thức mà con người có được thật là
nhỏ hẹp. Ngay dù là một nhà bác học thông thái thì cũng vẫn còn rất nhiều điều
chưa biết hết. Cho dù con người có thể khám phá hết các hành tinh trong thái
dương hệ mà chúng ta đang sống đây, thì ở ngoài vũ trụ mênh mông không ngằn mé
kia vẫn còn có vô lượng thế giới, vô lượng thái dương hệ, vô lượng dải ngân hà
mà với tri thức thường nghiệm con người không làm sao biết hết được. Hơn nữa,
tri thức thường nghiệm xây dựng trên nền tảng của tâm phân biệt vọng chấp, cho
nên nó thường xuyên bị dính mắt trong các đối tượng nhận biết. Nó là tác nhân
mà cũng là tác duyên cho sự hiện hữu mang bản chất sinh diệt không ngừng của
vọng tâm.
Nhận thức của con người còn bị
tập khí của bản ngã vị kỷ trói buộc lại. Trong tiến trình nhận thức ảnh hưởng
của bản ngã vị kỷ có sức tác động rất lớn. Khi nghe một điều gì, chẳng hạn, con
người không nghe với một tâm thức rỗng lặng và cởi mở mà nghe với sự tham dự
sâu đậm của hậu cảnh tâm thức, của bản ngã vị kỷ: chỉ nghe những gì mình thích,
mình có cảm tình; chối bỏ không nghe, đóng kín tâm thức trước những điều mình
không thích, không ưa, những gì ngược lại với nhận thức chủ quan, với cá tính
của bản ngã vị kỷ. Mắt, mũi, lưỡi, thân và ý cũng vậy. Cái gì thích thì ham
muốn có được, tham. Cái gì không thích thì ghét bỏ, sân. Cái thích mà không tới
tay, ngược lại cái không thích mà cứ tiếp xúc thì bực tức, sân si.
Chính vì thế, giới hạn của tri
thức cũng là giới hạn của tình cảm, tâm tư. Tâm thức không thể trải rộng ra xa
hơn ngoài cương vực của bản ngã vị kỷ. Tình cảm, do đó, vì tham ái mà có. Chỉ
có thể thương yêu người khác khi bản ngã vị kỷ chịu mở cửa để đón nhận. Ngược
lại, kẻ nào làm đụng chạm đến bản ngã vị kỷ thì nó tức thì đóng kín cửa lại,
không tiếp nhận cái hình ảnh của người đó, cho dù là cha mẹ, vợ chồng hay con
cái. Tình thương yêu đó quả thật đã bị điều kiện hóa, đã bị trói chặt trong cái
vỏ ốc nhỏ hẹp của bản ngã vị kỷ. Bản chất của tri thức và tình cảm ấy chính là
vô minh và phiền não. Nó cũng là căn nguyên gây ra bao nhiêu khổ não. Muốn hết
khổ đau thì phải mở tung những trói buộc của tri thức và tình cảm phàm tình.
Mở tung nó bằng cách nào? Bằng
cách đập phá tan nát cái tri thức và tình cảm phàm tình đó? Nếu như vậy thì con
người còn lại gì? Một con người không có nhận thức và tình cảm? Hay là giống
như một khối gỗ đá vô tri? Thật ra vấn đề không phải rắc rối như vậy. Chỉ đơn
giản thôi: cái gì buộc thì mở cái đó. Mở cái buộc chứ không phải phá cái bị
buộc. Cái buộc là gì? Là vô minh và các phiền não. Vậy mở cái buộc tức là mở vô
minh và các phiền não, chứ không phải phá nát cái nền của nhận thức và tình cảm
ở trong con người. Nhưng mở như thế nào? Mở tức là chuyển, là chuyển hóa,
chuyển hóa vô minh và phiền não thành giác ngộ và giải thoát. Cho nên ngay sau
khi thành Đạo, đức Phật đã tuyên bố:
“Ta lang thang trong vòng luân
hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Đau khổ thay kiếp sống
cứ tái diễn mãi! Hỡi kẻ làm nhà! Nay ta đã gặp được ngươi rồi. Ngươi không được
làm nhà nữa! Bao nhiêu rui mè của ngươi đều gãy cả rồi, kèo cột của ngươi đã
tan vụn cả rồi. Trí ta đã đạt đến vô thượng Niết-bàn, bao nhiêu dục vọng đều
dứt sạch cả.”
Làm sao để chuyển hóa được vô
minh và phiền não? Vô minh và phiền não như bóng tối. Vậy muốn chuyển hóa bóng
tối thì phải làm gì? Phải nhờ đến ánh sáng để xóa tan bóng tối. Ánh sáng đó
chính là trí tuệ. Muốn xóa đi bóng tối của vô minh và phiền não thì phải vận
dụng được năng lực của từ bi và trí tuệ. Vận dụng bằng phương thức nào? Bằng
con đường nỗ lực thực nghiệm giới, định và tuệ qua sáu pháp môn cụ thể là bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Đó là con đường trên
cầu Phật đạo, dưới cứu khổ quần sinh của Bồ-tát. Con đường dành cho những ai
cảm nghiệm được một cách sâu sắc rằng tất cả mọi đau khổ của con người, của
chúng sinh đều khởi sinh từ vô minh và phiền não. Duy chỉ có mỗi một giải pháp
để dứt trừ khổ đau là phát thệ nguyện giác ngộ và giải thoát cho mình và người.
Sự thành tựu tuệ giác tối thượng của Bồ-tát Hộ Minh cách nay trên hai mươi lăm
thế kỷ là một điển hình sáng chói của chí nguyện cao cả đó.
Trong thế giới mà chúng ta đang
sống hiện nay có quá nhiều bất an và khổ não, từ những biệt nghiệp sai khác của
mỗi người đến những cộng nghiệp thâm trọng của tập thể. Chiến tranh, thù hận,
khủng bố, đói khổ, bệnh tật, tai ương, v.v... cứ trút xuống thân phận bé bỏng
của con người. Vào những ngày cuối tháng 12 năm 2004 vừa qua, nạn động đất và
sóng thần ở những nước nằm dọc theo Ấn Độ Dương đã cướp đi trên hàng trăm ngàn
nhân mạng và hủy diệt bao nhiêu cơ sở vật chất với trị giá lên đến hàng tỉ Mỹ
kim.
Cuộc đời càng mong manh và khổ
não thì sự giác ngộ của đức Phật càng có giá trị và cấp thiết. Chính vì vậy mà
ngày nay đạo Giác ngộ đã được lưu truyền rộng rãi trên khắp thế giới. Càng ngày
con người càng nhận thức ra được rằng trí tuệ giác ngộ và đức từ bi không giới
hạn mà đức Phật đã khai thị là phương thức hữu hiệu nhất để mang lại hòa bình,
an lạc, tự do, nhân tính và công lý đích thực cho mọi người, mọi chủng tộc. Đây
cũng là lý do khiến cho tổ chức Liên Hiệp Quốc đã chính thức công nhận và tổ
chức Đại lễ kỷ niệm ngày Đản sanh của đức Phật mỗi năm tại trụ sở chính ở thành
phố Nữu Ước, Hoa Kỳ.