1. Mấy năm trước, sau khi đọc một
số topic trên tathy.com/thanglong, tôi đã copy để lưu lại ý kiến của người có
nick là hoacovangnoiay như sau:
“Ở cái thời buổi nhập nhoạng này:
- Copy design của Tây Tàu, rồi may vội được mấy bộ quần áo. Thế là được gọi là
nhà thiết kế thời trang - Được giải nhất karaoke phường, bỏ ít tiền ra được 1
CD x 1500 copy. Được gọi là ca sĩ - Chửi bậy khớp nhạc. Được gọi là ca sĩ hip
hop - Chân dài, thiếu ăn. Được gọi là người mẫu - Có tí ti nhan sắc, được lên
phim truyền hình. Được gọi là diễn viên triển vọng - Vẽ được mấy cái tranh, dở
Đông, dở Tây. Được gọi là họa sỹ đương đại - Mua bãi rác về bới, cởi truồng đi
lông ngông ở bãi cỏ. Được gọi là nghệ sỹ sắp đặt - Viết được một vài bài thơ,
có một lũ ra vẻ mình biết thưởng thức, xúm vào hít hà, sao mà thơm ngon như bát
phở 24. Thế là được gọi là Nàng thơ quần chúng”.
Tôi lưu lại và dẫn ra ở đây vì
dẫu có thấy buồn cười thì tôi vẫn nghĩ: bỏ qua cái vẻ thái quá trong khái quát
và diễn đạt, thì ý kiến này vẫn chứa đựng trong đó một phần sự thật, một phần
sự thật đáng buồn hơn là đáng mừng, đang tồn tại trong sinh hoạt văn hóa - nghệ
thuật nước nhà. Bởi trong những ngày này, người ta khó có thể phân biệt giữa
bạt ngàn các nghệ sĩ được quảng bá và tự quảng bá trên hệ thống thông tin đại
chúng thì đâu đích thực là “ngôi sao” tài năng, và đâu chỉ là “ngôi sao băng”
lóe ngang qua “bầu trời nghệ thuật” rồi tắt ngóm?
Sự dễ dãi trong định giá cùng với
tình trạng lạm phát ngôn từ, trong bất kỳ tình huống nào cũng không thể tạo ra,
không thể khẳng định được các giá trị. Và điều đó sẽ không có ý nghĩa gì nếu
người trong cuộc tỉnh táo nhận chân mình là ai, hay không để bị quyến rũ bởi
những lời tán tụng nhiều khi là sáo rỗng. Nhưng sự đời xem chừng không đơn
giản, vẫn thấy tâm sự và tuyên ngôn của nhiều “ngôi sao” đăng tải nhan nhản
trên báo chí, mà nếu so sánh giữa lời nói với kết quả lao động nghệ thuật của
họ thì không khó để nhận ra một khoảng cách. “Tôi viết tài tử”, “trong thơ tôi
sống thật với bản thân tôi”, “tôi không quan tâm đến dư luận”, “viết để khỏi vo
tròn cái tôi”, “tôi chỉ là tôi thôi. Bóng bẩy, phức tạp mới chính là tôi”, “tôi
có chọn thơ đâu, là thơ chọn tôi đấy chứ”, tác phẩm của tôi đã dạy cho các nhà
phê bình các tri thức mới… Đó là những lời tôi thu lượm được và tôi nghĩ, nếu
so sánh việc sử dụng đại từ nhân xưng số ít trong các dẫn dụ kể trên với việc
ngày trước Nguyễn Tuân viết đề từ cho một cuốn sách của ông bằng ba chữ “kính
tặng tôi” thì xem ra, Nguyễn Tuân lại là người khiêm tốn, chứ không phải là
“ngông” như ai đó nhận xét!
So sánh cho vui vậy thôi, chứ dù
cụ Nguyễn có “ngông” hoặc “kiêu” một chút thì chắc là cũng không mấy ai nhíu
mày, vì ở nước Nam này, văn tài như Nguyễn Tuân chỉ có một người, kiếm đâu ra
được… hai Nguyễn Tuân. Dù rằng bên vô số lời ca ngợi và khẳng định dành cho tài
năng của Nguyễn Tuân, cũng có vài ba ý kiến chưa thỏa mãn với tác phẩm này hay
tác phẩm khác, với chi tiết này hay chi tiết khác thì cũng không vì thế mà
tiếng tăm của cụ Nguyễn lại suy suyển. Mọi người vẫn nhắc đến Cụ như nhắc đến
một tài năng của văn học nước nhà.
Nhớ ngày còn học ở Trường đại học
Văn hóa - Hà Nội, thi thoảng tôi theo bạn bè tới ngồi bên cửa sổ lớp viết văn
của Trường Nguyễn Du, để nghe ké một số bài giảng. Một hôm tôi thấy trong khi
giảng bài, Xuân Diệu lấy ra một cuốn tạp chí văn học - nghệ thuật của nước
ngoài mà tôi không nhớ tên (hình như là tạp chí Hoa sen của Hội Nhà văn Á -
Phi?) rồi đưa cho cả lớp xem. Ông bảo tạp chí đăng ba bài thơ của ba nhà thơ
Việt Nam , trong đó có hai
bài thơ ngoài tên tác giả, người ta phải mở ngoặc đơn để ghi chú là người Việt Nam , riêng bài
của Xuân Diệu thì không ghi chú như vậy. Rồi ông hỏi: “Có ai biết tại sao
không?”. Sau khi các anh chị trong lớp trả lời không biết, Xuân Diệu bảo: “Vì
Xuân Diệu đã thuộc về nhân loại, nên không phải ghi chú là người Việt Nam !”. Nghe ông
nói, tôi ngớ người và liên tưởng đến chuyện “thiếu khiêm tốn”, sau nghĩ lại
thấy thi tài như Xuân Diệu ở nước Nam cũng chỉ có một người, nếu Xuân Diệu là
nhà thơ tầm cỡ quốc tế thì cũng không có gì phải băn khoăn, sự nghiệp thơ ca
của ông sẽ bảo đảm cho điều đó (tuy về sau đọc Toàn tập Xuân Diệu thì không
phải bài thơ nào, tiểu luận nào của ông cũng hấp dẫn và thuyết phục tôi).
2. Trong văn hóa ứng xử truyền
thống, dường như xưa nay ý niệm “khiêm tốn” đã trở thành một trong những tiêu
chí để đánh giá đạo đức của con người. Chẳng thế mà ngày trước, để bày tỏ phẩm
chất khiêm tốn, các cụ nhà ta lại chẳng thường sử dụng các cụm từ đại loại như
“ngu mỗ”, “bỉ nhân”, “kẻ hèn”,… đó sao. Mà trong thực tế, nhiều cụ sử dụng các
cụm từ này vốn là đại gia, đâu đến mức “ngu, bỉ, hèn”. Lại nữa, vai trò và sự
chi phối của cộng đồng đối với thành viên của nó trong cách thức tổ chức xã hội
truyển thống đã đẩy tới rất nhiều ràng buộc, làm cho con người không thể trở
thành cá nhân với tư cách là thành viên độc lập. Chỉ những người có bản lĩnh,
có uy tín như cụ Nguyễn Công Trứ hay cụ Cao Bá Quát thì mới “ho he” được vài ba
điều trước xã hội như là thể hiện cá tính mang dấu hiệu của ý thức cá nhân.
Đến thời hiện đại, vấn đề vẫn
chưa có nhiều biến chuyển, đại từ nhân xưng số nhiều (chúng tôi) vẫn được sử
dụng phổ biến để thay thế cho đại từ nhân xưng số ít (tôi) và mọi người mặc
nhiên coi là điều bình thường, dẫu đó là văn bản hay phát ngôn của một cá nhân
cụ thể.
(Nhân đây, xin nói về một hiện tượng
mà sự lặp lại của nó làm cho tôi nghĩ có gì đó bất thường. Ấy là khi tôi đọc
những luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ mà ở đấy người thực hiện thường sử dụng
đại từ nhân xưng “chúng tôi” thay cho đại từ “tôi”. Phải chăng đó là biểu thị
của thói quen khiêm tốn? Phải chăng tác giả đã không dám thừa nhận sản phẩm
nghiên cứu là của chính mình? Phải chăng vì dấu ấn của người hướng dẫn đậm nét
đến mức vị học viên, nghiên cứu sinh kia không dám khẳng định là sản phẩm
nghiên cứu riêng? Phải chăng đó là sản phẩm liên danh giữa tác giả và… người
viết thuê? Phải chăng đó là sự phát huy truyền thống khiêm nhường?).
Và tôi còn ngờ ngợ trong một số
trường hợp, người ta sử dụng đại từ “chúng tôi” không hẳn là để chuyển tải tinh
thần khiêm tốn, mà trong đó lại như có bóng dáng của thái độ trốn tránh trách
nhiệm, cố nấp sau lưng số đông hoặc dùng số đông để bảo lãnh cho ý kiến riêng…
Nghĩa là nghiêm khắc mà xem xét, thì hiện tượng sử dụng “chúng tôi” thay thế
cho “tôi” có khi không chỉ là một thói quen, có thể còn chứa đựng một tập tính
ứng xử không hẳn là đáng biểu dương?
Do nhiều lý do văn hóa và tự
nhiên, trong quá khứ, cách thức tổ chức xã hội và mối liên kết giữa con người
với con người ở Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào những mối quan hệ được xác lập
từ mô hình “nhà - làng - nước” (theo PGS Phan Ngọc), phụ thuộc vào sự chuyển
dịch của các vai trò xã hội từ mô hình “vua - quan - dân” (theo GS Trần Quốc
Vượng), đẩy tới sự ra đời và tồn tại của mối gắn kết chặt chẽ, khó có thể tách
rời giữa cá thể với cộng đồng. Tình trạng ấy cùng sự chi phối của thế giới quan
- nhân sinh quan Nho giáo (với một số trường hợp còn là sự pha trộn quan niệm
của Phật giáo, Đạo giáo) nên xã hội ít quan tâm tới vai trò của cá thể. Nói
cách khác là con người chỉ được nhìn nhận như là cá thể xã hội mà chưa được
nhìn nhận như là cá nhân - con người riêng lẻ.
Vì thế trong xã hội truyền thống,
các chế định và chế ước xã hội (thành văn hoặc không thành văn) luôn quy định
và tác động trực tiếp tới con người. Mọi người hành xử theo yêu cầu của chế
định, chế ước xã hội hơn là từ nhu cầu, khát vọng của bản thân, làm cho con
người tồn tại như là cá thể xã hội thụ động hơn là tư cách chủ nhân (xin nhấn
mạnh - NH). Theo đó thì những câu tục ngữ như “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”,
“Sống bằng mồ mả không ai sống bằng cả bát cơm”… đều có nguồn gốc từ vai trò
của chế định, chế ước cộng đồng. Thậm chí về hình thức, câu tục ngữ “Một giọt
máu đào hơn một ao nước lã” như có vẻ mâu thuẫn với câu “Bán anh em xa mua láng
giềng gần” thì xét đến cùng, lại có ý nghĩa riêng trong điều kiện sống cụ thể.
Về điều này, ở phương Tây - cụ
thể là châu Âu, lại diễn biến theo một quá trình khác hẳn. Cho dù ở phương Tây,
hệ thống chế định, chế ước xã hội cũng không kém chặt chẽ thì vẫn dành cho con
người một “khoảng trống”, là nơi để ý thức về vai trò của cá nhân trong tư cách
là chủ thể độc lập của xã hội ra đời và phát triển. Không ngẫu nhiên từ mấy thế
kỷ trước, người châu Âu có thể bồng bế nhau vượt biển, tìm đến vùng đất mới ở
Bắc Mỹ, ở Úc châu để sinh cơ lập nghiệp rồi lập nên những quốc gia mới. Còn ở
Việt Nam ,
lại có các biểu hiện đặc thù. Vài chục năm trước (ngoài những lý do riêng, đặc
biệt và bất khả kháng) việc lấy vợ, lấy chồng là người nước ngoài, hoặc sinh cơ
lập nghiệp ở vùng đất khác, ở quốc gia khác vốn là chuyện xa lạ đối với rất
nhiều người. Người ta không chỉ xa lạ, không chỉ ngạc nhiên, đôi khi còn tỏ ra
kỳ thị. Trong các căn nguyên của hiện tượng này, có một căn nguyên quan trọng
là sự ràng buộc, trì níu của quan hệ cộng đồng truyền thống và quan niệm về sự
tồn tại của con người như là những cá thể xã hội thụ động.
3. Ngày nay mọi chuyện đã khác
trước, nhất là từ khi xã hội mở cửa giao lưu và hợp tác về kinh tế - văn hóa
với thế giới. Tiếp biến văn hóa - văn minh thời hiện đại đưa tới một chuyển
dịch văn hóa - văn minh mới trong xã hội, và với con người, ý thức về cá nhân
bước đầu được khẳng định và từng bước phát triển. Tuy nhiên, tình thế bước đầu
ấy không bao hàm ý nghĩa là xã hội và mỗi người đều đã có quan niệm đúng và đầy
đủ về cá nhân cũng như về vai trò của cá nhân.
Mặt khác, quá trình chuyển dịch
từ cá thể thụ động trước đây đến vai trò là cá nhân - chủ thể xã hội, là một
quá trình phức tạp. Nhất là trong bối cảnh trong truyền thống dân tộc, dấu ấn
của quan niệm cá nhân còn mờ nhạt, đa số công dân vẫn chưa làm quen với lối xem
xét có tính duy lý về sự tồn tại của bản thân mình, thì hầu như phải bắt đầu từ
“viên gạch” đầu tiên. Nghĩa là phải xây dựng quan niệm về cá nhân từ các nội
hàm cơ bản nhất. Trong khi đó, sự phát triển của xã hội với những tiêu chí mới
và hiện đại lại cần tới một ý thức cá nhân tiên tiến, vì đơn giản là chúng ta
không thể xây dựng một xã hội mới bằng ý thức, tinh thần của những cá thể thụ
động.
Song cũng chính lúc này, giao lưu
văn hóa - văn minh với nhân loại lại đưa tới sự du nhập một số giá trị mà bản
thân nền văn hóa và ý thức cộng đồng của chúng ta chưa chuẩn bị điều kiện cần
và đủ để tiếp nhận… Kết quả là trong sinh hoạt xã hội đã không chỉ xuất hiện
một số quan niệm khác nhau về cá nhân mà còn xuất hiện cả một vài “mảnh vỡ” của
quan niệm này do chưa tiếp nhận trọn vẹn và thiếu chủ động. Rồi vì không được
kịp thời điều chỉnh, nên đáng tiếc là chúng ta đã, đang (và sẽ?) phải chứng
kiến sự bộc lộ “cái tôi cá nhân” theo xu hướng tiêu cực hơn là tích cực.
Quan sát sinh hoạt sống hiện tại,
tôi nhận thấy có một loại hiện tượng đáng quan ngại là trong khi khái niệm “cá
nhân” chưa được nhận thức cho ngọn ngành, chưa được đặt trong quan hệ sống còn
của nó với xã hội thì đã nhanh chóng bị lạm dụng. Đã có nhiều người coi việc
phóng chiếu sở thích, nhu cầu, đòi hỏi… của mình vào xã hội là biểu hiện của
quyền cá nhân. Điều này tạo điều kiện để người ta phô diễn thói ích kỷ, sự háo
danh, kiểu sống hẹp hòi, phô diễn hành vi ngông ngạo bấp chấp chế định luật
pháp và đạo đức của xã hội. Không phải tìm đâu xa, chỉ cần quan sát ở vùng đô
thị, sẽ thấy trong số người vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm thì người đi xe
máy đắt tiền như SH, Dylan chiếm tỷ lệ cao nhất. Kiểu sống chỉ biết có mình,
không quan tâm tới các quan hệ, không quan tâm tới quyền lợi của người khác,
không quan tâm tới hình ảnh xấu - đẹp của mình trước sự đánh giá của cộng đồng…
đang là một vấn nạn của sinh hoạt xã hội.
Ví như gần đây, hẳn là mọi người
Việt Nam quan tâm tới danh dự, lợi ích của cộng đồng đều phải lấy làm xấu hổ
khi biết ông Calisto - Huấn luyện viên trưởng Đội tuyển bóng đá Việt Nam, nhận
xét về các cầu thủ đã viện dẫn những lý do rất khó chấp nhận để từ chối nghĩa
vụ đối với quốc gia, rằng: “Hàng triệu triệu người chết vì đất nước, tôi không
hiểu khi tổ quốc cần, 1-2 người lại có thể từ chối” (Thể thao & Văn hóa,
10.9.2008). Và trong đời sống văn học, một biểu hiện của tình trạng này là quan
niệm về “cái tôi” cực đoan của một số nhà văn và nhà thơ, mà đọc điều họ viết
hay nghe điều họ nói, đôi khi thấy đáng thương và buồn cười. Đặc biệt hơn, hầu
như các tác giả hô hoán to nhất về “cái tôi” thì giá trị tư tưởng - nghệ thuật
trong tác phẩm của họ lại đứng ở hàng trung bình trở xuống!
Nói thế nào thì sáng tạo văn học
- nghệ thuật cũng là một trong nhiều loại hoạt động xã hội có tính cá nhân rất
cao, và “cái tôi” của nghệ sĩ giữ vai trò hết sức quan trọng. Cho dù sử dụng âm
thanh - như trong âm nhạc, hay sử dụng chính mình - như diễn viên trên sân
khấu,… làm phương tiện sáng tạo thì yếu tố quyết định cuối cùng vẫn là tài
năng, là tâm hồn, năng lực tư tưởng - thẩm mỹ của nghệ sĩ. Với văn chương cũng
vậy, nhà văn bao giờ giữ vai trò quyết định và “thế giới tinh thần bên trong”
của nhà văn phong phú hay nghèo nàn thì vẫn luôn luôn và phải được thể hiện qua
tác phẩm.
(Điều này xem ra hơi đối lập với
ý kiến của một ông tiến sĩ - mà tôi đang nghi ngờ tính xác thực trong cái bằng
tiến sĩ của ông ta, từng viết như sau: “Nhiều người trong chúng ta có một quan
niệm hết sức sai lầm cho rằng văn chương là tiếng nói của tình cảm, rằng viết
văn chính là cách giải tỏa bức xúc… viết văn thực chất là giải một bài toán tối
ưu”!).
Tuy nhiên khi nói tới “cái tôi”,
không thể đặt nó ra ngoài các tương quan xã hội - nơi cung cấp cho nhà văn các
tài liệu và là nguồn cảm xúc làm nên tác phẩm. Hơn thế nữa, “cái tôi” ấy phải
được đặt trong quan hệ với người đọc, vì nếu chỉ là “tôi viết cho tôi”, chỉ là
“tâm sự của riêng tôi” thì hà cớ gì phải mau mắn công bố tác phẩm với công
chúng? Vả lại, nếu “chỉ viết cho tôi” thì sản phẩm lẽ ra phải nằm trên giá sách
của cá nhân hoặc nếu có điều “bí mật ghê gớm” thì nên cất giữ dưới đáy hòm,
trong góc tủ, giấu ở đầu giường chứ sao lại đem ra trưng bày trước thiên hạ?
Khi “cái tôi” đã bị đẩy tới mức
cao ngạo để rồi quay ra coi thường độc giả thì cũng là lúc người viết tự chứng
tỏ tài năng của họ chỉ là một ảo tưởng chứ không phải là một tài sản vô giá
song vô hình trong tâm trí và hữu hình trong tác phẩm. Lại nhớ một nữ sĩ xứ An
Nam từng trả lời phỏng vấn để lý giải tại sao khi thủ vai MC chị lại nói những
điều khó hiểu: “Tôi muốn khán giả khi nghe, xem và phải tự hiểu, còn nếu không
hiểu, phải tự hỏi xem tại sao mình không hiểu? Tôi không có nghĩa vụ làm cho
tất cả mọi người hài lòng và tôi không quan tâm đến điều đó”. Nói ra điều này,
nữ sĩ quên rằng chị là người được giao sứ mạng làm cầu nối giữa khán giả với
tác phẩm của nhạc sĩ. Đặt “cái tôi” cao hơn khán giả, chị còn bộc lộ một quan
niệm ấu trĩ là không cần biết phát ngôn của mình có ý nghĩa thế nào trước cộng
đồng.
Khi “cái tôi” được quan niệm là
tài sản của riêng tôi, thuộc quyền sở hữu của tôi, tôi có quyền trình diễn nó
trước xã hội… thì cũng là lúc mà người ta cần phải biết tự cảnh tỉnh, hay chí
ít cũng phải tập cái thói quen thi thoảng rà soát lại xem “cái tôi” của mình
hay - dở ra sao. Phải kiểm tra xem “cái rương” trí tuệ thật sự chứa đựng “vàng
ròng, kim cương” hay chỉ là “đồ mỹ ký, hạt thủy tinh”. Để sau khi tác phẩm xuất
bản, tác giả không bị rơi vào tình huống trớ trêu là sau khi công chúng cùng
đồng nghiệp định tính là “đồ mỹ ký, hạt thủy tinh” lại cố chứng minh là “vàng
ròng, kim cương” đấy chứ.
Nhưng có lẽ đó là công việc không
dễ dàng, nhất là với một số tác giả trẻ; khi mà đối với một số người, bầu trời
chỉ có kích cỡ to bằng “cái miệng giếng” thì người ta sẽ không biết sợ. Nên mới
đây lại thấy các phát ngôn còn “hoành tráng” hơn nhiều, tỷ như: “So với các bạn
trẻ 8X, tôi là một người nổi tiếng khá sớm… Không bao giờ tôi hối tiếc về việc
tôi làm, những gì làm đều nằm trong chủ ý của mình… Nếu họ không thích xem phim
của tôi, họ có thể xem những bộ phim khác phù hợp với trình độ nhận thức của
họ, tôi không quan tâm”. Nói đến thế này thì quả là “cái tôi” đã phóng chiếu
một cách tự tin đến mức… lố bịch và như vậy, liệu có nên bổ túc tri thức về vai
trò của nhà văn trong xã hội? Và tôi lại nhớ một phát ngôn khác rằng: “còn tôi,
cả đời chỉ trung thành với một thứ - đó là bản thân mình”. Nói như thế thì
chẳng hóa ra người ta chỉ trung thành với chính mình, còn với mọi người, với
những quan hệ xã hội, người ta không cần trung thành hay sao? Theo đó mà suy,
các tác phẩm của tác giả này đã phát hành lại chứa đựng trong đó cả sự giả dối?
Câu hỏi không phải không có lý, bởi chủ nhân của phát ngôn này đã có lần… “đạo
văn” theo đúng nghĩa đen của từ này!
Để có quan niệm nghiêm túc, đúng
đắn về “cái tôi”, có lẽ còn cần dựa trên nền tảng của quan niệm đúng và đầy đủ
về “cá nhân”. Cá nhân không phải là khái niệm “xấu”. Trong lịch sử, sự ra đời
của cá nhân và quan niệm khoa học về cá nhân là một bước tiến quan trọng của
nhận thức, vì đã đặt con người vào vị trí làm chủ xã hội, đưa lại cho con người
các “quyền” mà giai đoạn lịch sử trước đây không có. Tuy nhiên, quan niệm khoa
học về cá nhân cũng đòi hỏi cá nhân phải hoàn tất trách nhiệm, nghĩa vụ mà xã
hội giao cho nó với trong tư cách là công dân.
Quan hệ cá nhân - xã hội là quan hệ
hữu cơ, cá nhân chỉ là cá nhân khi đặt trong quan hệ với xã hội. Chính vì thế,
trong bất kỳ trường hợp nào, cá nhân cũng không thể đứng ngoài cộng đồng. Tự
đặt mình ra ngoài cộng đồng, tự đặt mình đứng trên xã hội là cá nhân đã tự cắt
đứt mối liên hệ sinh tử của sự tồn tại. Hơn thế nữa, sống trong xã hội tổ chức
quy củ, các vai trò xã hội được xác lập một cách công khai và bình đẳng, dù là
nhà văn, nhà thơ hay nhà gì đi chăng nữa thì vẫn là công dân với tất cả các
quyền lợi và nghĩa vụ. Cho nên, nếu một mặt mỗi cá nhân cần phải được cộng đồng
tôn trọng, thì mặt khác cộng đồng lại phải phê phán lối khuếch trương “quyền”
cá nhân một cách cực đoan, hay nhân danh “quyền” cá nhân để biện hộ cho “cái
tôi” ích kỷ, hô hoán om xòm về “cái tôi”, làm như “cái tôi” là độc quyền của
nghệ sĩ. Thường thì các hiện tượng này ít đưa tới cho tôi sự tin cậy, tôi coi
đó chỉ là một kiểu “gồng mình”, nên tôi thường tự hỏi: “Phải chăng “cái tôi” to
tướng kia chỉ là biểu hiện của tình trạng trống rỗng và bất tài!?”./. "