
Như trong lúc chúng ta thấy tiền
của, sắc đẹp danh vọng v.v… sinh lòng "tham muốn", đó là tham tâm sở
hiện ra, nó là giặc phiền não. Chúng ta phải mau mau trừ đi, như thế gọi là
"Tu Tâm"
Trong lúc chúng ta gặp cảnh trái
nghịch, "nổi nóng" (sân), "tức giận" (phản) lên, "oán
hờn" (hận) và "buồn bã bực tức" (não) thối đạo, nản lòng, đó là
phiền não sở hiện ra. Nó là giặc đến hại ta, nó sẽ đốt tiêu rừng công đức và
phá hoại thành Niết bàn của ta. Ta nhiều kiếp sinh tử luân hồi cũng vì nó. Vậy
người Phật tử phải mau trừ đi; như thế gọi là "Tu Tâm".
Trong lúc chúng ta làm điều tội
lỗi, phá trai, phạm giới mà không hổ thẹn với lương tâm, không thẹn với chúng
bạn, thế là hai món phiền não "không hổ" và "không thẹn"
hiện ra. Nó là giặc phá hại, chúng ta phải lập tức trừ đi.
Đến giờ tụng kinh, niệm Phật hay
đến ngày lễ phải đi chùa lễ Phật nghe kinh, mà chúng ta thấy trong người dã
dượi chẳng muốn đi; đó là tâm sở "giải đãi" là giặc; hay chỉ muốn đi
coi hát, hoặc đánh bài v.v… đó là tâm sở "buông lung", thuộc về giặc
phiền não, chúng ta phải trừ đi, như thế gọi là "Tu Tâm".
Trong lúc chúng ta làm điều tội
lỗi mà che giấu, không chịu phát lồ sám hối; đó là tâm sở "phú" thuộc
về giặc phiền não. Khi chúng ta thấy người có tài năng, danh vọng, hay được lợi
lộc, mà sinh lòng ghen ghét không ưa; đó là tâm sở "tật đố", cũng
thuộc về giặc phiền não.
Khi chúng ta biết được việc hay,
không chịu chỉ dạy cho người, hoặc thấy người thiếu thốn về vật chất, mình có
của mà không giúp đỡ; đó là tâm sở "bỏn xẻn" thuộc về phiền não. Nếu
giặc phiền não cường thạnh, thì nó sẽ phá hại chúng ta vô cùng vô tận.
Trong lúc tụng kinh, niệm Phật mà
thấy tâm mình lao chao không yên tĩnh, hoặc miệng nói lắp bắp, nói chuyện gì
cũng không đáng chuyện gì, ngồi đâu thì nhịp đùi, rung vế, hoặc đứng ngồi không
tề chỉnh; đó là "điệu cử tâm sở". Còn nghĩ tưởng xằng xiêng là
"tán loạn tâm sở".
Trong lúc tụng kinh, niệm Phật mà
tâm tánh mơ màng, nặng nhọc (ngủ gục) đó là "hôn trầm tâm sở" thuộc
về giặc phiền não; trái lại nhẹ nhàng khoan khoái, tụng niệm sáng suốt là
"khinh an tâm sở" thuộc về đạo binh lành.
Xin xăm, bói quẻ, cầu thần, đảo
qui, làm những điều mê tín, dị đoan, đốt vàng bạc, giấy tiền, lầu đài kho
phướng, chấp chặc theo thành kiến của mình, không tin lời nói phải, hoặc làm
theo tục lệ cổ truyền không chánh đáng, giữ gìn theo những giới cấm tà đạo; như
thế đều thuộc về "tà kiến" (ác kiến) tâm sở. Đó là giặc phiền não,
chúng ta phải mau dẹp trừ. Như thế gọi là "Tu Tâm".
Đối với người, ta dùng những mưu
mô để lừa dối, nói năng xảo trá, đó là "cuồng tâm-sở", thuộc về phiền
não; hoặc nói những lời nịnh hót, bợ đỡ, người hỏi không đáp, là
"siễm" và "kiêu tâm sở"; có ý khinh rẽ, hiếp đáp lấn lướt
người, là "ngã main tâm sở". Trên đây thuộc về giặc phiền não cả,
chúng ta phải diệt trừ. Như thế gọi là "Tu Tâm".
Mỗi khi chúng ta thấy việc đạo,
sốt sắng ra làm, là "tinh tấn tâm sở"; đến giờ tụng kinh niệm Phật
siêng năng, là "tinh tấn tâm sở", thuộc đạo binh lành. Lỡ làm điều gì
tội lỗi đối với mình hết sức hổ, với người hết sức thẹn, đó là "tàm"
và "quí" tâm sở, cũng thuộc về lành. Thấy vàng bạc, của cải, danh
vọng, sắc đẹp không tham, đó là " vô tham tâm sở", thuộc binh tướng
lành. Đối với cảnh nghịch, lòng không nóng nảy, giận hờn, đó là " vô si
tâm sở", cũng thuộc về lành. Gặp một việc gì, ta sáng suốt phán đoán hay
dở, lợi hại, là "vô si tâm sở". Không cờ bạc rượ trà phá trai phạm
giới, buông lung phóng đảng đó là " bất phóng dật tâm sở". Gặp những
việc người ta làm cho mình đau khổ mà mình hỷ xả; làm được việc gì hay, tốt, có
công đức mà không chấp trước (nghĩ đến) là "hành xả tâm sở". Không
giúp ích được người và vật thì thôi, chớ không làm tổn hại, đó là "bất hại
tâm sở". Trên đây đều thuộc về đạo binh hiền từ của chúng ta, chúng ta
nuôi dưỡng làm cho nó mạnh mẽ thêm lên, mới mong thắng được giặc phiền não trên
kia. Như thế gọi là "Tu Tâm"
Nói tóm lại, hàng ngày và từng
giờ từng phút, chúng ta phải thường tự kiểm thảo tâm mình như thế. Mỗi khi có
một niệm nổi lên, chúng ta phải thường tự kiểm thảo tâm mình như thế. Mỗi khi
có một niệm nổi lên, chúng ta phải xét ngay coi là thiện hay ác. Nếu ác, thì
chúng ta phải mau mau dẹp trừ; còn thiện, thì chúng ta phải làmsao cho nó thêm
tăng trưởng. Nếu giặc phiền não nổi lên, mà chúng ta để cho nó tự do hoành
hành, không sớm dẹp trừ, thì nó sẽ phá tan nước Công đức, cướp đoạt thành Niết
bàn của chúng ta; làm cho ta thành kẻ đê hèn và nô lệ cho vật dục, hoặc phải
đọa trong ba đường dữ là Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sinh.
Trái lại, đạo binh từ thiện trong
tâm chúng ta, nếu chúng ta biết nuôi dưỡng nó. Làm cho nó được mạnh mẽ, hùng
dũng, thì nó sẽ đánh tan được giặc phiền não, giữ gìn nước Công đức, bảo thủ
thành Niết bàn, làm cho ta trở nên hiền, thánh hay Phật.
Đạo binh hiền từ, kháng chiến với
giặc phiền não trong nội tâm chúng ta như thế, không những từng ngày, từng giờ
mà phải luôn luôn từng phút từng giây; không phải một năm hai năm, mà phải
nhiều đời nhiều kiếp, mới thắng được giặc phiền não. Kháng chiến như thế mới
thật là " trường kỳ kháng chiến". Như Đức Phật Thích Ca phải trải qua
bao vô số kiếp tu hành, mới hoàn toàn thắng được giặc phiền não, thành quả vị
Phật. Thành một vị Phật như thế, thật đâu có phải dễ, vì thế nên gọi là
"Phật bảo". Bởi thế nên, chúng ta dù suốt đời lạy Ngài đi nữa, cũng
chưa xứng.
Có người nghĩ rằng: "Tu hành
là việc khó, mà phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật thì lâu quá, ai làm
được!"
Thưa quý vị! Sách nói: "Thế
thượng vô nan sự, đô lai tâm bất chuyển". Nghĩa là: Trên đời không có việc
chi khó, chỉ tại tâm mình không chuyên cần. Nếu không ai làm được, sao Đức Phật
Thích Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa và nhiều Đức Phật khác
lại thành được. Phật đã dạy rằng: " Kia là trượng phu, thì ta đây cũng
vậy, chớ nên tự khinh mình mà lui suit". Người nghĩ sợ như thế, chẳng khác
nào như người học trò lớp năm, mà trông lên địa vị Thạc sĩ hay Bác sĩ, rồi họ
thối chí và nói rằng: "Học đến hai mươi mấy năm mới đậu Thạc sĩ ai học
được!". Thật ra ông Thạc sĩ lúc đầu tiên cũng học lớp năm như ai vậy. Tuy
biết rằng đường dài, nhưng từy theo sức mình, tu được bao nhiêu, sẽ được lợi
ích bay nhiêu. Như người học lớp năm; khi lên nhứt, thì vẫn thấy lợi ích học ở
lớp nhứt, cho đến khi lên trung học, đại học, v.v… thì đều có lợi ích ngang các
cấp ấy; học được lớp nào cũng đều có lợi ích cả. Dù Bác –sĩ hay Thạc sĩ, trong
lúc đầu tiên cũng học ở lớp thứ tư lớp năm như ai. Như quý vị đạo hữu thọ ngu giới
thì chỉ thấy ích lợi ở ngang năm giới; đến khi thọ giới Bồ Tát, thì được lợi
ích ở giới Bồ Tát. Dù thành quả Phật cao siêu, song lúc đầu tiên, quí Ngài cũng
như chúng ta vậy.
Thứ quý vị! Thắng được giặc phiền
não, không phải là một việc dễ, phải trải qua một thời gian lâu xa đến 3 vô số
kiếp mới hoàn toàn thắng được; có thắng được mới thành Phật. Vậy chúng ta trong
lúc thấy những người tu hành còn tham sân v.v… chớ nên trách họ. Vì còn phiền
não cho nên họ mới tu. Nếu hết phiền não thì họ đã thành Phật rồi, cần gì phải
tu nữa. Cũng như còn kháng chiến tức là còn giặc; đã còn giặc thì có khi thắng
trận, mà cũng có lúc bại trận. Người ở trong vòng tu hành cũng thế, có khi
thắng được giặc phiền não, mà cũng có lúc giặc phiền não thắng. Vậy chúng ta
không nên trách: "người tu sao còn tham, sân v.v…"
Thưa quý vị! Chúng ta từ hồi nào
đến giờ, bị giặc phiền não xâm chiếm, cướp mất chủ nhơn ông (chơn tâm). Nó trói
cột, xiềng xích, làm cho ta mất tự do; bị nó sai sử, đầy đọa bắt ta làm nô lệ
cho thất tình lục dục, mất độc lập. Vậy chúng ta phải nổ lực dùng đạo binh hiền
từ, kháng chiến cho thắng được giặc phiền não ở nội tâm, phá tan xiềng xích nô
lệ, lấy lại thành Giải thoát, đem trở về chủ nhơn ông (chơn tâm) như thế mới
thật là độc lập, mà có độc lập, ta mới được tự do.
Nếu như nước nhà được độc lập,
dân chúng được tự do, mà tâm ta hãy còn bị phiền não trói buộc, thất tình lục
dục sai sử, gây tạo những điều tội ác, thì ta không sao khỏi bị gông cùm tù
tội. Dù cho nước nhà có thật độc lập, dân chúng được tự do hoàn toàn, mà ta vẫn
bị xiềng xích gông cùm nô lệ cho vật chất như thường, không được tự do và độc
lập chút nào cả.
Vậy dám mong, tôi cùng quý vị, cố
gắng kháng chiến cho hoàn toàn thắng được giặc phiền não ở nơi tâm mình, để
khỏi làm nô lệ cho thất tình, lục dục, để được giải thoát như Phật. Như thế mới
hoàn toàn tự do độc lập. Và được như thế, là do chúng ta biết "Tu
tâm".