Đức Phật, Đấng đạo sư tôn quý của
nhân loại. Ngài đã đến và đi ngang qua dòng đời sanh diệt, hơn 2500 trôi qua,
thời gian có thể xóa nhòa đi tất cả, nhưng kỳ diệu thay hình ảnh Đức Phật in
đậm trên mặt đất này, pháp âm giải thoát vẫn còn vang mãi trong trái tim nhân
loại và chúng sanh.
Thế giới hôm nay có lắm thương
đau, còn quay cuồng trong sân hận và tham lam. Chiến tranh còn gieo rắc, nhân
tình còn chịu khổ vì hoạn nạn tai trời, ách nước. Những cảnh tượng sống động đó
đầy đủ chứng minh hùng hồn cho giáo lý cao thượng của Đức Phật -Thế gian vô
thường, vô ngã, khổ, không. Ngài tuyên bố: “Ta ra đời chỉ nói khổ và phương
pháp diệt khổ”. Ngài đã cho nhân loại ánh sáng đạo lý mà tự thân đã giác ngộ,
đó là con mắt tuệ giác liểu tri đời sống con người và vạn vật. Trong cuộc đời
đầy cạm bẫy bởi thế lực vô minh và nghiệp chướng, chúng ta cần có con mắt tuệ
giác của Phật soi đường, hãy vận dụng tầm nhìn ấy để tìm về cội nguồn hạnh phúc
vĩnh hằng.
Đức Phật từ bảy bước trên hoa sen
và hiện thân làm thái tử đầy đủ cảnh vinh hoa phú quý như vợ đẹp, con thơ, cung
vàng điện ngọc, cung phi mỹ nữ của một đời sống dục lạc trần gian. Đôi mắt Thái
tử vẫn hững hờ trước đời sống mà thế gian thường hưởng thụ. Thực chất đời sống
của Ngài là phú quý trên mọi phú quý, là quyền lực trên mọi quyền lực, vì Ngài
ở đời sẽ thừa kế ngôi vị đế vương mà vua Tinh Phạn hằng mơ ước. Đôi mắt ấy,
Ngài đã nhìn thấu bản chất của đời sống con người, đó là cảnh sanh già, bệnh,
chết, những dục lạc thúc dục mạng sống mông mênh, vô thường giả tạm của con
người. Từ đó Ngài liên tưởng đến cả nỗi đau nhân thế, mọi kiếp người đang quay
cuồng trên sân khấu của cuộc đời ngắn ngủi. Ôi trái tim vị tha của Bồ Tát, Ngài
giáng sanh ở trần gian với đôi mắt từ bi vô hạn, từ bỏ tất cả sở hữu hạnh phúc để tìm đường
xuất gia, cầu giác ngộ chân lý.
Từ đỉnh cao của sự giải thoát
giác ngộ Ngài đã dập tắt mọi thế lực vô minh ngự trị trong tâm mình, khẳng định
rằng tất cả chúng sanh đều có đầy đủ Phật chất trong lòng, có khả năng thoát khổ
thông qua con đường đoạn trừ tham ái, chứng đắc tuệ giác vô ngã. Giáo lý đức
Phật là mục đích chuyển hóa tâm ô nhiểm thành tâm trong sạch. Nó như một phương
thuốc nhiệm mầu trị liệu căn bệnh trầm kha tham, sân, si để hướng tới hạnh phúc
chân thật Niết bàn. Niết bàn không phải là cảnh giới hư vô mà là thực trạng
vắng mặt mọi khổ đau “Ái diệt tức niết bàn”. Chỉ cần dập tắt ngọn lửa tham ái
thì cảnh giới niết bàn hiện hữu.
Đức Phật dạy rằng: Mọi người đối
trước chân lý đều bình đẳng, không có giai cấp trong con người, khi mồ hôi cùng
mặn, dòng máu cùng đỏ. Đó là ý thức hệ vô cùng nhân bản, đánh tan mọi quan niệm
sai lầm của xã hội Ấn Độ đương thời, vì xã hội ấy đã phân thành bốn giai cấp:
1- Bà-La-Môn tự cho mình là giai cấp tôn quý, nắm mọi pháp quyền, 2- Giai cấp
Sát-Đế-Lợi là giữ truyền thống của dòng vua chúa, nắm quyền lãnh đạo. 3- Giai
cấp Phệ-Xá thuộc những hạng người thương dân giàu có, 4- Giai cấp Thủ-Đà-La là
thứ dân hạ tiện nhất xã hội. Đức Phật đã đem ánh sáng bình đẳng soi rọi vào
lòng xã hội, hoàn toàn không phân biệt giai cấp hay sắc tộc, mọi người biết tu
tập, mọi người biết hướng thiện thì đều được an lạc.
Giáo lý Đức Phật nhằm thuyết minh
hai phương diện hạnh phúc tương đối và hạnh phúc tuyệt đối. Người học Phật phải
có con mắt tuệ giác mới đầy đủ năng lực hộ trì chánh pháp, lấy Giới-Định-Huệ
làm phương châm tu học, thông qua tu học phước tuệ để xây dựng hạnh phúc cho
mình và tha nhân. Con người phải dũng mãnh bỏ đi cái khối ung nhọt của kiến
chấp sai lầm, không nên mê muội bám chặt vào chủ nghĩa hình thức tiêu cực,
không nên vì thành kiến và tham vọng làm mất đi giá trị tình thương trong cộng
đồng nhân loại. Người học Phật sống và làm việc với lòng chân thật, không nên
mượn hình thức tôn giáo nuôi lớn quyền lực cá nhân hay sống theo thủ đoạn thế
tục. Sống với đạo là trở về với chân lý, sống bằng tình thương và hiểu biết.
Theo Phật mà không hiểu lời Phật dạy, không làm theo lời Phật dạy cũng là một
hình thức hủy báng Phật Pháp ở đời.
Chúng ta hãy mở mắt nhìn vào dòng
lịch sử Phật Giáo từ thuở xa xưa cho đến ngày nay. Phật giáo từ Ấn Độ đến Trung
Hoa, đến Việt Nam
và tồn tại khắp năm châu bốn bể, nó luôn là kim chỉ nam soi sáng cho con người
thoát khỏi khổ đau và thù hận. Trong bão
tố cuộc đời như chiến tranh và bạo lực, đạo lý ấy vẫn tồn tại vì dân tộc nào
cũng yêu chuộng và gìn giữ. Thế sự có thăng trầm đạo ấy vẫn an nhiên bất động,
năng lực của pháp siêu việt lên tất cả mọi triết lý và chủ thuyết.
Hôm nay chúng ta được biết Phật
pháp đó là một cơ hội hiếm có trong đời. Nhờ ân Đức Phật, chư Thánh đệ tử của
Phật, lịch đại Tổ sư, chư vị Phật tử hộ trì chánh Pháp đã không tiếc thân mạng
truyền bá chánh pháp. Chúng ta là người thừa kế phải biết vận dụng Phật pháp tu
học để gột rửa mọi nội kết ngã chấp trong lòng, đem đạo lý tình thương vào đời
sống nhân loại. Đó là chánh kiến như Đức Phật đã nhìn cuộc đời. Ở trong kinh
Kim Cang có dạy: “Các pháp ở thế gian đều là như giấc mộng, là huyễn hóa, như
bọt nước, như giọt sương, như điện chớp, phải thường quán sát như vậy”. Cuộc
đời có gì là thật, kiếp người bao giờ cũng bị trói buộc trong dục vọng điên
cuồng, sự chấp ngã đã gán vào tâm con người những vết dơ của thù hận và lòng
ích kỷ, từ đó tâm ta xu hướng vào vòng ô nhiễm, kết thành hạt giống phiền muộn
và vô minh.
Đức Phật đã cho ta con mắt tuệ
giác để quán chiếu tường tận mối quan hệ duyên sinh các sự kiện cấu thành thân
tâm và thế giới, bỏ đi những nhận thức sai lầm trước mọi hoàn cảnh trước dòng
đời luôn luôn vận chuyển trong từng Sát-na. Đôi mắt tỉnh thức thấy rõ tính chất
vô ngã của hiện tượng giới.
Ngài dạy: “quá khứ không truy
tìm, tương lai không ước vọng, tuệ quán chính ở đây…”. Do vậy tu học là biết
quán sát, không nên đào bới những mặc cảm thù hận trong đáy lòng mà mất đi tình
thương tươi mát vốn có. Không tham vọng về tương lai mang tính chất ảo huyền
phi thực tế. Hãy an trú trong hiện tại, làm nhiều điều tốt đẹp lợi ích, phát
huy được năng lực tuệ giác vốn có trong lòng mình và có khả năng giác ngộ như
Phật. Lại nữa, ở trong kinh Pháp hoa có dạy: “Đức Phật ra đời vì một đại sự
nhân duyên khai thị chúng sanh ngộ, nhập Phật tri kiến”. Chúng ta hiểu rằng mục
đích Phật xuất thế để thức tỉnh chúng sanh thoát khỏi căn nhà lửa tam giới.
Khai tức là mở ra tri kiến Phật, Thị là chỉ cho thấy tri kiến ấy, Ngộ là làm
cho thấy rỏ, Nhập là vào tuệ giác của Phật. Đức Phật là bậc thầy gương mẫu, đã
cho nhân loại một tầm nhìn siêu xuất, nhìn rỏ bản chất hư giả của cuộc đời, từ
đó mới có thái độ sống cao đẹp.
Là Phật tử chúng ta phải có chánh
tín rằng một khi mây mờ phiền não trong lòng đã xua tan thì bầu trời tự tánh
giác ngộ được xuất hiện. Đến lúc đó nhìn lại trần gian nhẹ như tơ hồng, bao
nhiêu buồn giận hơn thua trong đời đều là sự dại dột ngây ngô. Chúng ta sẽ im
lặng quỳ dưới chân đức Phật nở một nụ cười thầm kín trên môi với lòng tri ân,
rồi tự mình nói rằng: Kính lạy Phật cho con có mắt nhìn cuộc đời như thật, cho
con có cơ duyên thực hiện đạo lý tình thương vô ngã. Thế gian này thật đáng
thương, con không có lòng thù hận mà muốn cùng bắt tay mọi người với tình thắm
thiết. Trong kiếp người ngắn ngủi này con nguyện thương nhau hơn và cùng phụng
sự cho lợi ích nhân loại, có vậy đến lúc nhắm mắt xuôi tay lìa trần không còn
sầu khổ và hối hận một đời đã qua sống trong vô nghĩa. Cho con có đôi mắt của
Phật để phát huy nguồn yêu thương nội tại trong chính mình và có được hạnh phúc
chân thật.
Thích Đức Trí
Nguồn: buddhahome.net