1. Chính đề (these, thesis)
2. Phản đề (antithese)
3. Hợp đề (synthese)
Lịch sử nhân loại tiến hóa theo
con đường biện chứng nói trên. Mọi sự thay ngôi đổi chủ đều được vận hành một
cách biện chứng. Biện chứng pháp của Hegel lý giải vì sao có sự thay ngôi đổi
chủ trong xã hội loài người.
Đầu tiên là biện chứng pháp chủ-nô.
Hegel cho rằng thoạt kỳ thủy, xã hội loài người được phôi dựng bằng một cuộc
đánh nhau chí tử giữa hai con người. Động cơ và mục đích của cuộc ấu đả là
tranh giành ngôi chủ. Tâm lý con người ai cũng muốn làm chủ, chẳng ai chịu làm
nô. Vì không ai chịu nhường cho ai nên phải thách đấu bằng một cuộc đọ sức để
phân thắng bại. Ai thắng sẽ làm chủ, ai thua phải chịu làm nô.
Có hai điều đáng lưu ý trong sự
vụ này: một là đánh nhau chí tử mà không để cho đối phương chết; hai là bên
thắng là kẻ không sợ chết. Đánh nhau chí tử mà không để cho chết vì nếu đối
phương chết thì lấy ai để công nhận mình là người, là lấy ai tôn mình làm chủ?
Bên thắng trận là người không sợ
chết. Vì sao không sợ chết đang khi ham sống sợ chết là bản năng mà ai cũng có?
Phải chăng trong cuộc đánh nhau chí tử này kẻ không sợ chết có bản năng quyền
lực mạnh hơn là bản năng sợ chết. Thêm vào đó y không có gì để mất - không tài
sản không địa vị. . . Thông thường trong cuộc ẩu đả kẻ nào tuyên bố 'liều một
phen', 'thí mạng cùi' đều làm cho đối phương khiếp sợ và phải đầu hàng. Bên
thua trận vì muốn giữ lại mạng sống, tài sản, . . . nên đành chịu thua và đành
chấp nhận làm nô, buộc phải công nhận quyển làm người của chủ. Ông chủ mới
truất bỏ quyền làm người của nô. Truất bỏ quyền làm người của nô nhưng vẫn thừa
nhận nô là người; vì chẳng lẽ ông chủ được công nhận quyền làm người bởi một
con không phải là con người!
Sẽ xảy ra sự thể gì đây sau khi
đã phân ngôi chủ tớ?
Nô với thân phận nô lệ hoàn toàn
lệ thuộc vào chủ, sinh mệnh của nô nằm trong tay chủ. Nô trở thành công cụ lao
động của chủ - một thứ công cụ sống - Nô bị mất chỗ đứng trong thế giới con
người (le monde humain). Nô chỉ còn biết chinh phục thiên nhiên, khai thác
thiên nhiên để làm chủ trong nhiên giới (le monde naturel). Nô phải nai lưng ra
làm việc để phục vụ ông chủ. Đất đai là mẹ của tài sản, lao động là cha của tài
sản. Nô tác động sức lực và cơ bắp của mình vào đất đai để làm ra tài sản cung
phụng cho chủ. Khi cơ bắp được vận dụng thì trí não nô cũng được triển nở phát
tiết. Nô làm chủ thiên nhiên và từ đó bắt đầu phục hồi ý thức làm chủ. Qua lao
động con người nẩy sinh ra nhiều sáng kiến, phát minh để cải tiến lao động. Do
nhu cầu nâng cao năng suất, nô buộc phải nghĩ ra những dụng cụ lao động đạt
nhiều hiệu quả hơn. Thế là mọi tài sản trong xã hội đều do một tay nô làm ra. Còn
chủ thì chỉ ngồi mát ăn bát vàng. Vì chỉ biết hưởng thụ, lười nhác lao động nên
càng ngày càng trở nên ù lì trì trệ. Cái mầm của giai đoạn phản đề đã bắt đầu phôi
thai.
Khi xã hội phát triển, biện chứng
chủ nô biến dạng thành biện chưng giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Giai
cấp thống trị đóng vai trò trung gian nghiểm nhiên hưởng thụ mọi thứ và tài sản
càng ngày càng trở nên kếch sù. Giai cấp thống trị giàu có sung mãn ham mê
hưởng thụ sinh ra sợ chết. Giai cấp thống trị càng ngày càng củng cố quyền lực
để có thể thống trị lâu dài. Giai cấp bị trị dần dần bị tước đoạt hết quyền tự
do. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp càng ngày càng trở nên sâu sắc và một phản động
lực bắt đầu hoạt hiện triển nở. Thế là giai đoạn chính đề đã qua giai đoạn phản
đề. Giai cấp bị trị cần thiết phải quật khởi để giành lấy quyền con người, quyền
tự do. Tự do hay là chết. Sống cho ra sống hay chấp nhận cái chết. Đó là một sự
lựa chọn mang tính mặc định. Danton, nhà cách mạng Pháp 1789 đã từng than lên
rằng: "Ôi!Mỗi bước tiến của thần Tự Do là một viên đá để xây mồ". Trong
cuộc đấu tranh sống mái giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, thế tất
thắng nghiêng về giai cấp bị trị do các yếu tố sau đây:
- Giai cấp thống trị có nhiều cái
để mất: QUYỀN LỰC, TÀI SẢN, DANH VỌNG, ĐỊA VỊ. . .
- Vì quen lối sống hưởng thụ, lười
nhác lao động, ngại khó ngại khổ
- Sự sợ hãi làm cho con người
thiếu sáng suốt, mất bình tĩnh và suy yếu ý chí chiến đấu.
Nhưng, yếu tố quan trọng nhất là sợ chết.
Trong khi đó giai cấp bị trị
không có gì để mất, đã từng kinh qua khó khăn gian khổ, từng làm chủ thiên
nhiên, làm chủ khoa học kỹ thuật, lại có lợi thế là chiếm đa số. Thế là kẻ chiến
thắng trước đây nay thành kẻ chiến bại. Một tổng hợp đề mới khác ra đời.
Biện chứng pháp của Hégel có ảnh
hưởng không ít về cách tư duy, lập luận của các triết gia sau này. Về bản thể
luận, Hegel cuối cùng đi đến kết luận yếu tính điều động và chi phối tất cả mọi
hiện hữu là ý tưởng tuyệt đối (l'idée absolue). Có lẽ vì vậy mà sau này người
ta gọi triết học Hegel là triết học duy tâm. Karl Max, học trò của Hegel đã vận
dụng biện chứng pháp của thầy mình để luận về chủ nghĩa tư bản (capitalisme)
hình thành một phương pháp biện chứng mới: biện chứng pháp duy vật sử quan. Điều
trái ngược giữa Hegel và Karl Max là một bên cho rằng ý tưởng tuyệt đối, một
bên cho rằng vật chất tuyệt đối. Truyền thống triết học tây phương nặng về duy
lý: có hoặc không có vấn đề là ở đó (to be or not to be that question).
Truyền thống triết học đông
phương tiêu biểu như Nho, Phật, Lão vượt lên trên hai đầu cực đoan: có hay
không có vấn đề không phải ở đó (to be or not to be that not question). Thuyết
trung dung của Khổng Mạnh, thuyết trung đạo của Phật gia và thuyết vô tránh của
Lão Trang đều có cái nhìn tổng hòa nhất quán về hiện hữu, tạo ra sự hòa điệu
trong mọi sinh thành của vũ trụ và nhân sinh. Từ đó tạo ra sự cân bằng và hòa
hợp trong mối quan hệ tứ trụ: THẦN - NHÂN - THIÊN- ĐỊA
Làm thế nào để hóa giải những mâu
thuẫn trầm kha trong lịch sử cũng như trong xã hội để cho lịch sử được tiến hóa
trong chiều hướng tích cực. Đây là vấn đề luôn luôn được bỏ ngỏ.
Nguồn: vuphamdatnhan.blogspot. com