Thế giới này của chúng ta vốn là
nơi quy tụ của những chúng sinh đã tạo nhiều ác nghiệp, trong đó nặng nề nhất
vẫn là nghiệp giết hại. Trong một bối cảnh như vậy, việc đa số con người vẫn
tiếp tục làm chuyện giết hại cũng là điều dễ hiểu. Và bất cứ ai kịp thời tỉnh
thức để dừng lại, dù ít dù nhiều cũng đều là một sự đáng quý.
Vì vậy, chúng ta không nên đòi
hỏi việc nhất thời có thể dứt bỏ hoàn toàn cả việc giết hại trực tiếp và gián
tiếp. Chỉ cần ta nhận thức được vấn đề và có một quyết tâm tự thay đổi chính
mình theo hướng vươn lên, điều đó sẽ giúp ta dần dần rũ bỏ được những ác nghiệp
đã tạo.
Khởi điểm khiêm tốn nhất của
chúng ta trước hết là nên từ bỏ ngay mọi hành vi trực tiếp giết hại. Điều này
vô cùng quan trọng. Bởi vì, trong thực tế có một sự khác biệt rất lớn giữa việc
bạn ăn thịt gà và tự tay cắt cổ giết gà. Hành vi trực tiếp giết hại bao giờ
cũng là một ác nghiệp rất nặng nề, làm thương tổn lòng từ bi và nuôi lớn thêm
tập khí giết hại vốn đã sẵn có trong mỗi chúng ta. Vì thế, từ bỏ được việc trực
tiếp giết hại sẽ là một bước khởi đầu rất quan trọng và có thể mang lại những
thay đổi lớn lao trong tâm hồn bạn.
Vào thời đức Phật còn tại thế,
khi ngài lần đầu tiên thuyết dạy về việc từ bỏ hành vi giết hại trong xã hội Ấn
Độ, cũng có rất nhiều người không thể làm theo ngay được. Vì thế, ngài đã tạm
thời cho phép các đệ tử được dùng ba loại thịt gọi là “trong sạch” (tam tịnh
nhục). Ba loại thịt ấy là:
1. Thịt của con vật mà người ăn
không trực tiếp nhìn thấy khi nó bị giết.
2. Thịt của con vật mà tai người
ăn chẳng nghe biết khi nó bị giết.
3. Thịt của con vật mà người ăn
hoàn toàn không biết là đã bị giết để cho mình ăn.
Đây chính là phương tiện mà đức
Phật đã dùng để giúp các đệ tử của ngài dần dần từ bỏ việc giết hại. Vì thế,
sau khi đã từ bỏ được việc trực tiếp giết hại, chúng ta cũng có thể học biết ba
loại “tịnh nhục” này để tạm thời sử dụng trong khi chưa thể hoàn toàn dứt bỏ
việc ăn thịt. Khi chỉ dùng ba loại “tịnh nhục” này, ta sẽ tiến được xa hơn một
bước nữa trong việc từ bỏ sự giết hại.
Cùng với những việc làm trên, ta
nên bắt đầu làm quen với một số ngày ăn chay trong tháng. Hầu hết những người
tập ăn chay thường bắt đầu mỗi tháng hai ngày, vào đầu tháng và giữa tháng. Ta
có thể tăng dần lên bốn ngày, rồi sáu ngày, mười ngày... Lâu dần, ta có thể
phát nguyện ăn chay một tháng, hoặc hai tháng, ba tháng... trong một năm.
Điều quan trọng nhất trong việc
tập ăn chay là những ngày chay phải hoàn toàn trong sạch, thuần khiết. Bạn có
thể ăn chay mỗi tháng bốn ngày mà giữ được trọn vẹn, còn hơn là mỗi tháng mười
ngày nhưng không thực sự trong sạch. Đặc biệt, trong ngày ăn chay tuyệt đối
không nên mua sắm hoặc nấu nướng những thức ăn mặn để chuẩn bị cho ngày hôm
sau, vì như thế sẽ làm mất đi ý nghĩa của ngày ăn chay.
Ngày nay, ăn chay không chỉ là
vấn đề của tín ngưỡng. Các bác sĩ, chuyên gia dinh dưỡng đôi khi cũng đề nghị
với bệnh nhân nhiều chế độ dinh dưỡng để trị bệnh, mà thực chất là những chế độ
ăn chay, bởi vì chúng loại trừ hoàn toàn các loại thịt, cá. Sở dĩ như vậy là vì
khoa học đã nhận ra rất nhiều tác hại của việc ăn thịt động vật, đồng thời cũng
nhận ra những ưu điểm của việc ăn chay đối với sức khỏe. Ăn chay giúp ngăn ngừa
rất nhiều mầm bệnh, giúp cơ thể phát triển một cách tự nhiên hơn vì không phải
đối phó với nhiều chất độc hại có trong các loại thịt động vật. Người ăn chay
rất hiếm khi bị thiếu hụt các sinh tố (vitamin), vì chúng hiện diện rất nhiều
trong các thức ăn tự nhiên như rau, củ, quả...
Một trong những hoài nghi của
khoa học dinh dưỡng trước đây đối với việc ăn chay là có thể dẫn đến suy dinh
dưỡng do thiếu chất đạm (protein). Tuy nhiên, mối lo ngại này nay đã hoàn toàn
được giải tỏa, khi khoa học khám phá ra rằng các loại đậu, nhất là đậu nành,
chứa một hàm lượng đạm rất cao và ở dạng dễ tiêu hóa, tốt hơn nhiều so với đạm
có trong thịt động vật.
Vì thế, nếu bạn quyết định ăn
chay, bạn có thể sẽ nhận được sự tư vấn của các chuyên gia dinh dưỡng rằng điều
đó hoàn toàn tốt cho sức khỏe của bạn, không phải lo ngại về việc “thiếu dinh
dưỡng” như trước đây rất nhiều người vẫn lầm tưởng.
Mặt khác, trong những nỗ lực từ
bỏ sự giết hại, bạn không thể không xem xét đến việc từ bỏ chăn nuôi gia súc,
gia cầm.
Do thói quen đã lâu đời, chúng ta
luôn nhìn việc chăn nuôi gia súc, gia cầm như một hành vi rất tự nhiên, không
có gì đáng để xem là ác nghiệp. Hơn thế nữa, đây lại là một trong những nguồn
kinh tế phụ khá quan trọng đối với nhiều gia đình. Một số người mặc dù đã biết
ăn chay nhưng vẫn tiếp tục chăn nuôi. Họ nghĩ rằng, chỉ nuôi thôi, đừng giết
hại chúng là được rồi! Nhưng than ôi, tuy không giết mà bán cho người khác giết
thì cũng có khác gì!
Chúng ta hãy thử đưa ra một vài
phân tích để thấy rõ bản chất thực sự của việc chăn nuôi gia súc, gia cầm. Từ
đó, mỗi người sẽ có thể tự cân nhắc, xem xét để thấy rõ là việc này có nên làm
hay không.
Trước hết, chúng ta chỉ có một
động cơ duy nhất để chăn nuôi. Đó là lợi dưỡng. Hoặc ta nuôi để trực tiếp giết
thịt, hoặc nuôi để bán cho người khác giết thịt, nhưng cả hai cũng đều đưa lại
kết quả giống nhau cho tất cả gia súc, gia cầm được nuôi. Không có ai nuôi gà,
vịt, lợn... vì lòng từ bi, thương xót chúng! Vì thế, mục đích của việc làm đã
có thể xác định một cách rất rõ ràng, không cần bàn cãi.
Và một khi mục đích đã được xác
định ngay từ đầu, thì số phận của tất cả những con vật nuôi tất nhiên là đã
được định sẵn – một số phận không lấy gì làm khả quan mà tất nhiên là không có
bất cứ sinh vật nào mong muốn.
Như vậy, xét cho cùng thì chăn
nuôi cũng chính là một hành vi giết hại. Quan trọng hơn nữa, đây là một hành vi
giết hại có sự cố ý, có một kế hoạch định sẵn, và thường là có quy mô tập thể.
Người đánh bẫy thú rừng có thể
bắt được mỗi ngày một vài con thú để làm kế sinh nhai. Đó là ác nghiệp rõ ràng
mà ai trong chúng ta cũng có thể thấy rõ. Thú rừng thoáng thấy bóng dáng anh ta
thì đều sợ hãi, lẫn trốn. Anh ta cũng lộ rõ không che giấu vẻ hung bạo của mình
khi bắt được những con mồi, và chúng luôn cảm nhận được là sẽ chết trong tay
anh ta. Mặc dù vậy, trước khi vào rừng thì anh ta cũng không thể biết là hôm
nay mình sẽ giết hại những con thú nào, thậm chí cũng không thể biết là liệu có
con thú nào vướng bẫy hay không... Những điều đó có một phần nào không nằm
trong sự tính toán của anh ta.
Nhưng với người chăn nuôi thì
khác. Anh ta có thể có một dáng vẻ rất hiền hòa, thân thiện với đàn gia súc,
gia cầm của mình, thậm chí còn vuốt ve chúng nữa. Không có con vật nuôi nào sợ
sệt anh ta, vì anh ta cho chúng ăn, gần gũi với chúng. Vì thế, chúng không muốn
lẫn tránh anh ta – nhưng cho dù có muốn, chúng cũng không thể làm được điều đó!
Những con vật ấy thật khó có thể biết được, cảm nhận được rằng mình sẽ chết
trong tay con người hiền hòa và thân thiện này! Nhưng tất cả đều đã nằm trong
sự tính toán của anh ta, nên anh ta hoàn toàn có thể biết chắc được là hôm nay
những con vật nào sẽ chết, có bao nhiêu con sẽ chết... Con số đó có thể lên đến
hàng chục, thậm chí hàng trăm...
So sánh những điều trên thì bạn
có thể thấy ngay tính chất nhẫn tâm của một người chăn nuôi thực ra là vượt xa
cả những người săn bắt thú. Sở dĩ người ta không nhận ra sự nhẫn tâm đó, là vì
người ta mặc nhiên không chịu thừa nhận rằng sinh mạng của những gia súc, gia
cầm kia cũng là sinh mạng, và cũng đều đáng quý như sinh mạng của mỗi chúng ta!
Bây giờ, nếu bạn thử so sánh số
phận của những con vật bị săn bắt trong tự nhiên với số phận của những con vật
nuôi, bạn sẽ thấy ra một điều là những con vật nuôi thực ra kém may mắn hơn
nhiều.
Thứ nhất, những con vật nuôi chưa
từng có được một đời sống tự do. Sinh hoạt hằng ngày của chúng hoàn toàn là do
người nuôi quy định. Ngày nay, người ta còn nghĩ ra những cách như nuôi gà
trong ống tre, nuôi heo trong những khung kín không thể xoay trở... tất cả đều
là nhằm tăng thêm lợi nhuận, và cái gọi là “quyền sống” của con vật chưa bao
giờ được xem xét đến. Trong khi đó, những con vật trong tự nhiên luôn có được
một đời sống tự do, có thể nô đùa, bộc lộ tình cảm với nhau, ít nhất cũng là
khi chưa bị con người giết hại.
Thứ hai, những con vật nuôi đã
nhận sẵn bản án tử hình ngay từ lúc sinh ra, và bản án đó có thể được thực hiện
bất cứ lúc nào. Lợn sữa cũng có thể bị mang đi quay nướng, bồ câu ra ràng ăn
càng bổ dưỡng... Không có quy định nào về độ tuổi của những con vật bị giết,
hay nói cách khác là chúng có thể chết bất cứ lúc nào. Và chúng hoàn toàn không
có khả năng lẫn tránh, chạy trốn như những con thú trong tự nhiên. Chúng chỉ có
một con đường duy nhất là ngoan ngoãn đi vào chỗ chết.
Thứ ba, những con vật nuôi là
những tử tù hoàn toàn không có hy vọng được ân xá. Trong khi những con thú
trong tự nhiên bị bắt về còn có hy vọng trong muôn một là sẽ có người mua chúng
để phóng sinh, thì những con vật nuôi hoàn toàn không có được hy vọng này. Bạn
có thể mua chim, cá, thỏ, rùa, cua... nghĩa là bất cứ con vật nào trong tự
nhiên để phóng sinh, trả chúng về cho tự nhiên. Nhưng ngược lại, cho dù có
thương xót đến đâu bạn cũng không thể mua những con gà, con vịt... để phóng
sinh, vì chúng hoàn toàn không có chỗ để bạn trả về! Chúng chỉ có mỗi một con
đường duy nhất trong xã hội loài người này, đó là đường chết!
Ngay cả với những con vật được
nuôi dưỡng với một vài mục đích khác hơn là việc giết thịt, thì số phận cuối
cùng của chúng cũng không tốt đẹp hơn. Trâu cày vẫn bị giết thịt, bò sữa cũng
không thoát khỏi, chó giữ nhà rồi cũng chung số phận... Bất kể chúng có đóng
góp được những gì, đích đến cuối cùng của chúng vẫn là sẽ bị giết thịt!
Bởi vậy, cách duy nhất để góp
phần chấm dứt những số phận đen tối của gia súc, gia cầm là hãy từ bỏ việc chăn
nuôi. Cho dù ta có thừa nhận hay không thì đó vẫn là một ác nghiệp, và nó chắc
chắn sẽ chiêu cảm những ác báo tương ứng. Nếu đã quyết tâm từ bỏ việc giết hại,
bạn cũng nên dứt khoát với việc chăn nuôi.
Hơn thế nữa, một người bẫy thú
nếu biết hồi tâm, chỉ trong một ngày có thể đổi nghề để sinh sống. Với một
người chăn nuôi thì điều đó khó khăn hơn nhiều. Bởi sự giết hại của anh ta là
một kế hoạch cụ thể, nên anh ta thật khó lòng mà không hoàn tất kế hoạch đó,
khi nó mang lại cho anh ta nhiều lợi nhuận.
Và như đã nói, việc thực hành
phóng sinh vào bất cứ khi nào có dịp sẽ hỗ trợ rất mạnh mẽ cho bạn trong việc
thực hiện tất cả những điều trên để từ bỏ ác nghiệp. Như một kết quả tất nhiên,
những người đã thường xuyên làm việc phóng sinh thì không thể tự mình trực tiếp
làm việc giết hại. Trong thực tế, những người thường xuyên làm việc phóng sinh
sẽ ăn chay rất dễ dàng, vì họ không còn cảm thấy thích thú những món ăn có thịt
cá, thậm chí còn có phần ghê sợ nữa. Thường xuyên phóng sinh cũng làm tăng
trưởng tâm từ bi, từ đó giúp bạn sáng suốt nhận ra tính chất ác hại của việc chăn
nuôi nên có thể từ bỏ một cách dễ dàng hơn.
Và nếu chúng ta có thể từ bỏ việc
giết hại, thực hành việc phóng sinh cũng như trở thành người ăn chay hoàn toàn,
thì ngay giữa thế giới còn đầy dẫy ác nghiệp này ta vẫn có thể nhận ra được ánh
sáng từ bi đang tỏa sáng, phá tan đi bức màn vô minh tăm tối.
Nguồn: rongmotamhon.net