Vô thường con đường dẫn đến giải thoát

Tất cả các pháp hữu vi là vô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.

Tất cả mọi pháp hữu vi, dĩ nhiên bất cứ vật gì rằng không thể phân chia thành nhiều thành phần. Tôi chợt hiểu ra rằng khoa học chứng mình cho chúng ta biết những bộ phận căn bản nhất, những nguyên tố hóa học cũng bị thoái hóa trong thời gian dài.

Hầu hết chúng ta đều nghĩ rằng sự vô thường trong tất cả mọi vật là một thực tế khó chịu, không có ai quan tâm. Chúng ta nhìn vào thế giới xung quanh, và hầu hết mọi thứ có vẻ chắc chắn và cố định. Chúng ta có xu hướng tìm ở những nơi ở mà cảm thấy thoải mái và an toàn, và chúng ta không muốn chúng thay đổi. Chúng ta cũng nghĩ rằng chúng ta là vĩnh viễn, từ lúc sinh ra cho đến lìa trần vẫn mãi như thế, và có thể cả kiếp sau cũng như vậy.

Nói một cách khác, chúng ta có thể biết, có thể hiểu biết rằng mọi thứ là vô thường thế nhưng chúng ta không chấp nhận bản chất mọi sự vật vốn thay đổi. Và mọi rắc rối xuất phát từ đây.

Vô thường và Tứ diệu đế

Trong bài thuyết pháp đầu tiên sau khi chứng ngộ, đức Phật đưa ra lời tuyên bố về giáo lý Tứ diệu đế, Ngài đã nói rằng cuộc sống là khổ đau. Dukkha một danh từ không thể dịch chính xác sang tiếng Anh. Thế nhưng thỉnh thoảng được diễn tả để chỉ cho một sự: “căng thẳng”, “sự không thỏa mãn” hoặc “sự đau khổ.” Rất là căn bản, đời sống đầy dẫy sự tham ái và sự khao khát mà chúng ta chưa bao giờ biết hài lòng. Bản chất sự tham ái này bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về bản chất tự nhiên của sự vật.

Chúng ta thấy mình là con người vĩnh viễn, tách biệt với mọi thứ khác. Đây là sự thiếu hiểu biết căn bản và yếu đầu tiên của ba độc làm phát sinh các chất độc khác là tham lam và sân hận. Chúng ta đi qua cuộc sống gắn kết với những thứ và muốn kéo dài chúng mãi mãi. Nhưng chúng không kéo dài, và điều này làm cho chúng ta buồn. Chúng ta đã từng kinh qua sự ghen tị và tức giận, và thậm chí trở nên bạo lực với những người khác bởi vì chúng ta bám víu vào một nhận thức sai lầm về vô thường.

Sự hiểu của trí tuệ rằng sự riêng biệt là một ảo tưởng sai lầm, bởi vì vĩnh cửu là một ảo tưởng. Thậm chí cái tôi mà chúng ta thường nghĩ là vĩnh hằng cũng là ảo tưởng. Nếu bạn là người mới học Phật, ban đầu điều này không có ý nghĩa mấy. Ý niệm nhận thức về vô thường là chìa khóa dẫn đến hạnh phúc cũng không mấy có ý nghĩa. Nó không phải là cái gì đó mà có thể hiểu bằng trí năng của mỗi cá nhân.

Tuy nhiên, Tứ diệu đế là một thực tập thông qua Bát chánh đạo chúng ta có thể nhận thức được và trải nghiệm về chân lý vô thường và thoát khỏi sự ảnh hưởng tác hại của ba độc. Khi thấu hiểu nguyên nhân của sự sân hận và tham lam là những ảo tưởng, sân hận và tham lam và sự khổ đau nguyên nhân của chúng thì chúng sẽ không còn.

Vô thường và vô ngã

Đức Phật dạy rằng sự tồn tại có Ba pháp ấn – Khổ (dukkha) vô thường (anicca), và vô ngã (anatta). Vô ngã cũng đôi khi được dịch là "không có bản chất" hoặc "không cái ngã." Đây là lời dạy rằng những gì chúng ta nghĩ như là "cái tôi", con người được sinh ra trong một ngày và sẽ chết trong một ngày khác chỉ là một ảo tưởng.

Vâng, ngay khi bạn đang ở đây, đọc bài viết này. Nhưng "cái tôi", bạn nghĩ là vĩnh viễn thực sự là một chuỗi những tư tưởng, một ảo tưởng kéo dài liên tục được tạo ra bởi thể xác và các giác quan và hệ thống thần kinh của chúng ta. Không có sự vĩnh hằng, cố định của "cái tôi” trong thân thể bạn mà cơ thể luôn có sự thay đổi.

Trong một số trường phái của Phật giáo, học thuyết vô ngã đẩy mạnh, để giảng dạy về shunyata, hay "tánh không." Lời dạy này nhằm nhấn mạnh rằng không có cái ngã bên trong hay "mọi vật" đều là hợp thể của nhiều thành phần, cho dù chúng ta đang đề cập về một người hoặc một chiếc xe hơi hay một bông hoa. Đây là một học thuyết vô cùng khó hiểu cho hầu hết chúng ta, vì vậy tôi không cảm thấy mình dỡ nếu điều này khiến cho mọi người không hiểu. Bởi nó cần có thời gian. Nhất là đối với trường hợp ít có lời giải thích.

Vô thường và sự chấp trước

Chấp trước là một từ mà chúng ta nghe rất nhiều trong Phật giáo. Chấp trước trong bối cảnh này không có nghĩa là những gì bạn nghĩ nó có thể trở thành hiện thực.

Một hành động chấp trước yêu cầu phải có hai thứ – một chủ thể chấp trước, và một đối tượng của chấp trước. "Chấp trước", sau đó là một sản phẩm tự nhiên của vô minh. Bởi vì chúng ta thấy mình là một thực thể vĩnh viễn tách biệt với mọi thứ khác, chúng ta nắm bắt và bám víu vào những điều "khác". Chấp trước trong ý nghĩa này có thể được định nghĩa như là bất kỳ thói quen tinh thần rằng sự tồn tại mãi mãi ảo giác về sự vĩnh hằng, tách rời cái ngã.

Chấp trước nguy hiểm nhất là sự chấp trước về cái tôi. Bất cứ điều gì chúng ta nghĩ và cần là của chúng ta, cho dù chức danh công việc, một lối sống, hoặc một hệ thống niềm tin đều là một chấp trước. Chúng ta bám vào những điều này là tàn phá khi chúng ta mất chúng.

Ngay từ đầu, chúng ta đi vào cuộc sống đã tự mặc cho mình một cái áo giáp cảm xúc để bảo vệ cái tôi của chúng ta, và rằng áo giáp cảm xúc này đã đóng cửa mối quan hệ chúng ta với nhau. Vì vậy, trong ý nghĩa này, chấp trước đến từ những ảo ảnh của tự riêng biệt, cố định, và chấp trước không đến từ việc thực hiện rằng không có gì là riêng biệt.

Vô thường và sự buông bỏ

"Sự từ bỏ" là một từ khác nghe rất nhiều trong Phật giáo. Rất đơn giản, nó có nghĩa là từ bỏ bất cứ điều gì liên kết chúng ta với vô minh và đau khổ. Nó không chỉ đơn giản là một vấn đề để tránh những điều chúng ta khao khát như một việc hành xác cho tham ái.

Đức Phật dạy rằng sự từ bỏ chân thật đòi hỏi thông qua nhận thức như thế nào chúng ta làm cho mình không hạnh phúc bằng cách bám vào những thứ chúng ta mong muốn. Khi chúng ta làm được như vậy, sự từ bỏ theo sau là một cách tự nhiên. Nó là một hành động giải thoát, không phải là một sự trừng phạt.

Vô thường và sự đổi thay

Thế giới dường như cố định và vững chắc, bạn nhìn thấy xung quanh bạn thực sự trong một trạng thái thay đổi liên tục. Giác quan của chúng ta có thể không có khả năng để phát hiện ra sự thay đổi từ thời điểm này đến thời điểm khác, thế nhưng tất cả mọi thứ luôn luôn thay đổi. Khi chúng ta hoàn toàn nhận thức vấn đề này, chúng ta hoàn toàn có thể thấu rõ và bằng chính kinh nghiệm của bản thân mà không hề bám vào chúng. Chúng ta cũng có thể học cách loại trừ đi nỗi sợ hãi về tuổi già, sự thất vọng, sự hối tiếc. Không có gì là có thật vào bất kỳ thời điểm nào.

Bởi vì không có gì là vĩnh viễn, tất cả mọi thứ là có thể. Giải phóng là có thể. Giác ngộ là có thể.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết: "Chúng ta phải nuôi dưỡng cái nhìn sâu sắc vào sự vô thường mỗi ngày. Nếu chúng ta thực hành như vậy, chúng ta sẽ sống một cách sâu sắc hơn, bớt khổ, và tận hưởng niềm vui trong cuộc sống nhiều hơn nữa. Sống sâu sắc, chúng ta sẽ tiếp xúc với nền tảng sự sống của thực tại Niết bàn, thế giới có sự sinh ra và sự hoại diệt. Tiếp xúc sâu sắc với vô thường chúng ta sẽ tiếp xúc với cái vượt ngoài cái thường và vô thường. Chúng ta sẽ tiếp xúc với nền tảng của sự sống và nhận thấy rằng những gì chúng ta gọi là chúng sinh và không phải là chúng sinh chỉ là một ý niệm. Chưa bao giờ có gì mất đi và cũng không có gì là đạt được. ("Trái tim của Bụt” (Parallax Press 1998), tr. 124]

(Dịch theo Impermanence – the Path to Liberation của Barbara O'Brien)
Previous Post
Next Post