Con người khác với loài động vật
ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống, sống như thế nào thì gọi là thiện
là tốt, hoặc ngược lại là ác là xấu? Làm thế nào để con người thể hiện hành vi
của mình phù hợp với nhân tính? Cần có một mục tiêu, lý tưởng để hướng dẫn con
người hành động. Do đó, triết học và tôn giáo đã ra đời. Trong đó có Đạo đức
Phật giáo.
Đạo đức Phật giáo không chỉ là
những nguyên tắc đạo đức đáp ứng nhu cầu xây dựng hạnh phúc ổn định cho cá nhân
và thượng siêu việt và giải thoát, hay nói cách khác là đưa con người ta ra
khỏi con ngươi để vươn tới lý tưởng giải thoát. Nguyên tắc đạo đức Phật giáo
được gói gọn trong Bát Chánh Đạo, là Đạo đế trong Tứ Diệu Đế. Bát Chánh Đạo gồm
có: Chánh kiến (hiểu biết chính xác), Chánh tư duy (suy nghĩ đúng đắn), Chánh
ngữ (ngôn ngữ đúng đắn), Chánh nghiệp (hành vi đúng đắn), Chánh mạng (phương
tiện mưu sinh chân chính), Chánh tinh tấn (nỗ lực đúng đắn), Chánh định (tập
trung tâm đúng đắn). Tám Chi thánh đạo này có tác dụng thanh lọc ngôn ngữ, hành
vi và tâm lý của con người. Theo Tứ Diệu Đế, con người đau khổ vì còn tham lam
sân hận và si mê, từ đó tạo ra ngôn ngữ và hành vi bất thiện, nghiã là tạo ác
nghiệp để rồi gặt hái hậu quả khổ đau. Mục tiêu của đạo Phật là chấm dứt khổ
đau, đem đến an lạc và giải thoát.
Khổ đau theo đạo Phật có 2 lĩnh
vực:
- Một là khổ đau thông thường như
già, bệnh, chết, thất bại, khốn cùng … Nghiã là những đau khổ thuộc về tâm lý,
sinh lý, hoàn cảnh vật lý.
- Hai là nỗi đau khổ do luân hồi
sinh tử trong ba cõi.
Giải quyết đau khổ thông thường,
Đức Phật dạy: “Đừng làm các điều ác, hãy làm các việc lành” (Chư
ác mạc tác chúng thiện phụng hành). Muốn thực hiện điều này cần phải giáo dục
về mặt nhận thức, tư duy, nhận rõ điều ác, điều thiện (qua Chánh kiến, Chánh tư
duy), cần phải giữ gìn ngôn ngữ như không nói dối, không nói đâm thọc, không
nói độc ác, không nói lời phù phiếm vô ích; cần phải giữ gìn hành vi như không
được giết hại, không được trộm cắp, không được tà dâm; giữ gìn phương tiện mưu
sinh chân chính như không lường gạt trong nghề nghiệp, không hành nghề độc ác
như buôn bán vũ khí, chất độc rượu, buôn người, đồ tể … Những giới điều này
được đúc kết thành 5 giới của người phật tử: Không được sát sinh, không được
trộm cắp, không được tà dâm, không được nói dối, không được uống rượu.
Giải quyết nỗi khổ vì bị luân hồi
sinh tử, đạo Phật cho rằng phải thanh lọc tâm ý chấp ngã thành vô ngã, đoạn trừ
hoàn toàn tham, sân, si, bằng ba Thánh đạo: Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh
định để đưa đến Chánh trí, Chánh giải thoát.
Đạo đức Phật giáo mang tính phổ
quát, là cơ sở đạo đức cho xã hội. Hành vi đạo đức Phật giáo mang tính tự giác,
không ép buộc bởi Thượng đế hay một áp lực nào, chỉ vì nhu cầu hạnh phúc và an
ổn cho đời sống cá nhân và cộng đồng một cách lâu dài. Đó là những nguyên tắc
đạo đức cho bất cứ người nào, thời đại hay xã hội nào. Đây là tính ưu việt của
đạo đức Phật giáo.
Đạo Phật chú trọng đến vấn đề
giải thoát con người ra khỏi những ràng buộc, những đau khổ thông thường cho
đến vượt thoát biển khổ trầm luân sinh tử, tử sinh, bằng cách khai thác năng
lực tính Phật tiềm ẩn nơi mỗi chúng sinh và bằng khả năng tự lực của chính
mình. Để bắt đầu, đạo Phật thiết lập giới luật để ngăn ngừa hành vi bất thiện
của dục vọng bản năng, tạo điều kiện cho tính Phật xuất hiện, phát triển và
hoàn thiện nhân cách đến chỗ giải thoát hoàn toàn.
Tác dụng của giới luật trước hết
là tạo nên con người có tính cách ổn định, hướng về điều thiện, tránh xa điều
ác, biểu hiện ở chỗ kiểm soát chính mình, đối xử với mọi người và hoàn cảnh như
thế nào để đem đến sự bình an và hạnh phúc cho đời sống con người. Sau đó, trên
cơ sở đạo đức ấy, tâm lý được thanh lọc và đạt được trí tuệ, hội nhập thực tại
vô ngã, giải thoát tối hậu. Giới luật của đạo Phật không xây dựng trên nền tảng
tín điều và thiết lập giáo điều như các tôn giáo khác thường làm, để bắt buộc
tín đồ phải tuân thủ, mà xây dựng trên cơ sở thực tiễn tâm lý và xã hội, trên
cơ sở quy luật của hạnh phúc hay đau khổ. Vì vậy, định nghĩa về giới luật rất
rõ là: ngăn ngừa những điều bất thiện, đình chỉ các điều ác (phòng phi chỉ ác)
hoặc là đình chỉ các điều ác, thực hành các điều thiện (chỉ ác tác thiện). Giới
luật còn gọi là (Vinaya) tức là điều phục hành vi, ngôn ngữ bất thiện trở nên
thuần thiện, hay còn gọi là giải thoát từng phần, giữ giới nào thì giải thoát,
tự do về giới ấy. Điều này có nghiã là tránh được điều bất thiện nào thì điều
bất thiện đó không trói buộc, không làm hại được mình. Nói một cách tổng quát
thì giới luật là kim chỉ nam cho hành động, giúp con người giải quyết những vấn
đề bất ổn trong đời sống về mặt ứng xử, tâm lý, và nhất là đối với lý tưởng
giải thoát của người Phật tử.
Mục tiêu của đạo đức là hạnh
phúc; hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo
đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp với thực tiễn của
con người và hoàn cảnh xã hội mà con người đang sống. Có những tiêu chuẩn được
coi là đạo đức nhưng nó không thực sự cần thiết và thực sự phù hợp với quy luật
hạnh phúc. Có những tiêu chuẩn đạo đức chỉ phù hợp với một giai đoạn lịch sử
nào đó. Tóm lại nó không có tính phổ quát, không đạt chuẩn mực đạo đức toàn
diện.Vì vậy, thiết lập nền tảng đạo đức phải mang tính phổ quát, phù hợp với
chân lý và thực tiễn đời sống con người. Đạo Phật có thể cung cấp một hệ thống
đạo đức như vậy.
Một người muốn trở thành một phật
tử, tự nguyện đặt mình vào kỷ luật tâm linh mà Đức Phật đã thiết lập, họ phải
tuân thủ 5 giới, 10 giới hay nhiều giới hơn nữa, như 250 giới của Tỳ kheo, 48
giới của Bồ tát … Những giới luật ấy là những nguyên tắc hành trì, để sống có
phẩm chất hơn, có tác dụng hướng thượng và hướng thiện tâm lý và hành vi của
con người chứ không phải những nguyên tắc bất di bất dịch hoặc cứng nhắc giáo
điều. Giới luật ấy giúp con người nhận ra được một cách sâu sắc hơn về bản chất
của cuộc sống và rút ra được hệ quả đạo đức, nuôi dưỡng những niềm tin vào cuộc
sống hiện tại và hướng đi của tương lai.
Nếu một người hành trì các nguyên
tắc đạo đức hay những giới luật này mà họ không cảm thấy một sự bình an, thanh
thản nào thì họ đã không hiểu và hành trì đúng. Trong thực tế, có những Phật tử
tuân thủ các nguyên tắc của giới nhưng đời sống của họ vẫn thiếu đạo đức, mối
tương hệ của họ với tha nhân bất ổn, các mối quan hệ khác bị khủng hoảng. Đức
Phật dạy đấy là rơi vào giới cấm thủ, một trong những kiết sử, những ức chế tâm
lý.
Nguyên tắc hành trì mà Đức Phật
thiết lập cho các đệ tử khép mình vào đó để làm đình chỉ dục vọng bản năng có
thể nói đó là những nguyên tắc khách quan và phổ quát. Đó là 5 giới của người
phật tử:
1. Không giết hại.
2. Không trộm cắp.
3. Không quan hệ tình dục phi pháp.
4. Không dối gạt hại người.
5. Không rượu chè say sưa.
Năm giới này cho thấy 5 hướng
chính mà người Phật tử tự mình kiểm soát để (hành trì) tri hành. Đó là giới thứ
nhất răn người Phật tử kiềm chế nóng giận, giới thứ hai kiềm chế tham đắm vật
chất, giới thứ ba kiềm chế nhục dục, giới thứ tư kiềm chế sự khiếp nhược và ác
ý (nguyên nhân không chân thật), và giới thứ năm kiềm chế lòng ham muốn các sự
kích thích nhơ bẩn. Dù Phật tử hay không là Phật tử, các nguyên tắc đạo đức này
cần phải được thực hành, dù trong điều kiện thời gian hay không gian nào, nếu
không muốn có hậu quả xấu. Đức Phật xác định rằng một người nếu có hành vi sát
sinh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo và đắm say men rượu thì
sẽ có một cuộc sống sợ hãi và hận thù, đồng thời cõi ác đau khổ đang chờ đợi
họ; ngược lại một người (Phật tử) từ bỏ sát sinh … thì cuộc sống không có sợ
hãi, hận thù và cõi thiện đang chờ đợi họ. Giá trị của một con người không phải
được đánh giá qua tài sản, thân tướng, dòng họ, địa vị … mà được đánh giá qua 5
nguyên tắc đạo đức trên. Đức Phật dạy thêm rằng: “Một người mà hành trì của họ
được bảo vệ bởi 5 nguyên tắc (giới) trên thì người ấy có thể thành tựu một cách
nhanh chóng bốn tăng thượng tâm hiện tại lạc trú”. (Tăng Chi III)
Đi sâu hơn các nguyên tắc căn bản
trên, Đức Phật thiết lập 10 giới (10 điều thiện), nhằm nâng cao hơn nữa hành vi
và tâm lý đạo đức của con người. 10 điều ấy được thiết lập trên cơ sở hành vi,
ngôn ngữ, tâm lý.
*Hành vi gồm có:
Không sát sinh
Không trộm cắp
Không quan hệ tình dục phi pháp
*Ngôn ngữ gồm có:
Không nói dối.
Không nói hai lưỡi.
Không nói lời độc ác.
Không nói lời phù phiếm ba hoa.
*Tâm ý gồm có:
Không tham lam.
Không sân hận.
Không si mê tà kiến.
10 giới điều này thực sự bước vào
lộ trình của giải thoát. Đây là giới căn bản cho cả tại gia và xuất gia, khác
với 5 giới là bước đầu chỉ quy định trong phạm vi, hành vi và ngôn ngữ là những
biểu hiện đạo đức cụ thể gây hậu quả trực tiếp. Tuy vậy vẫn chưa thể hiện được
nguồn gốc, động cơ bên trong. Có người có thể giữ gìn vẻ bề ngoài như là có đạo
đức để lừa gạt người khác, nhưng họ vẫn không thể là người tốt thực sự, vì động
cơ bên trong không lành mạnh, chỉ tốt bề ngoài chưa phải là thiện thật sự. Luật
pháp của xã hội cũng chỉ giới hạn ở mức độ hành vi và ngôn ngữ mà thôi. Đức
Phật dạy rằng: “Một người thực hành 10 điều bất thiện thì cuộc sống của họ là
phi đạo đức, đồng thời không đạt được mục tiêu hạnh phúc”.” Này các Tỳ kheo, sát
sinh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời
độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận và tà kiến, đây gọi là phi pháp và
phi mục đích” (Kinh tăng Chi III). Ngài khuyên mọi người nên sống đúng theo 10
điều thiện, như vậy phù hợp với nguyên tắc đạo đức và quy luật của hạnh phúc.
Trong 10 điều thiện phân làm 3
lãnh vực: Thân, Khẩu, Ý. – Theo Phật giáo lãnh vực tâm lý rất quan trọng. Những
hành vi của thân khẩu ý đều có động cơ từ ý thức. – Những hành vi bất thiện chỉ
là những biểu hiện của động lực bên trong: tham, sân, hay tà kiến. Vì vậy, đạo
Phật thường coi trọng tu tâm hơn tu tướng. Nếu lòng tham không được nhân diện
và tu tập để chế ngự chúng thì tội ác sẽ phát sinh, thiện pháp sẽ tổn giảm. Đức
Phật dạy: “Này các tỳ kheo, do nhân tham, sân, si mà có sát sinh, lấy của không
cho tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù
phiếm … Như vậy, tham là nhân duyên cho nghiệp sinh khởi, sân là nhân duyên cho
nghiệp sinh khởi, si là nhân duyên cho nghiệp sinh khởi; ngược lại tham sân si
đoạn diệt thì nghiệp đoạn diệt”. (Kinh tăng Chi III) Sự phát triển giới điều
trong các sinh hoạt của Tăng chúng cũng chỉ khai triển sâu và rộng hơn 3 cái
động lực thiện và bất thiện bên trong tâm ý này. Tham lam là gốc nhưng tham có
nhiều loại: tham sắc, tham tài, tham danh, chấp ngã … Sự mở rộng giới luật
chính là để tương ứng với nhiều sắc thái khác nhau của 3 tâm bất thiện này.
Những nguyên tắc giới luật vừa để chế ngự, đình chỉ 10 ác nghiệp nhưng đồng
thời cũng để phát triển 10 thiện nghiệp, trong luật gọi tính chất 2 mặt này của
giới: Chỉ trì và Tác trì.
Đạo Phật chú trọng vào động cơ
tâm ý hay ý nghiệp. Điều đó không có nghiã là coi thường hành vi của thân và
khẩu và kết quả của đối tượng. Ví dụ giới sát: “Cố ý tự tay mình làm dứt sinh
mạng con người hoặc cầm dao đưa người khác giết, hoặc khen ngợi sự chết hoặc
khích lệ cho chết … Người kia vì các điều trên mà chết thì phạm tội giết người
phải bị trục xuất” (Giới Tỳ kheo). Một giới nếu vi phạm phải có tác ý, hay cố ý
làm căn bản nhưng để thành một hành vi phi đạo đức phải có biểu hiện thân khẩu
và kết quả của đối tượng. Có trường hợp thân khẩu hành động có hậu quả cho đối
tượng nhưng không cố ý, không tác ý thì không phạm tội hay tội rất nhẹ. Đó là
lý do đạo đức Phật giáo thường đi sâu vào động lực tâm ý của con người. Những
động lực tâm ý ấy trở thành giới luật, có tác dụng phòng ngừa và làm cho con
người trở nên thánh thiện.
Đối với người xuất gia, giới luật
rất nhiều và chi tiết. Tỳ kheo 250 giới, Tỳ kheo ni 348 giới, Bồ tát 48 giới …
Nhưng cũng chỉ phát triển từ sự đoạn trừ các động lực bất thiện của tâm ý là
tham, sân, si. Nếu một người không có tham sân si thì đạo đức đã hoàn thiện,
không còn giữ các giới điều trên làm gì. Vì vậy, đức tính của một Tỳ kheo được
Đức Phật dạy bao gồm các thiện tâm mà nguồn gốc là vô tham, vô sân, vô si, diễn
ra như sau: “Người có tâm xấu hổ (tàm quý) sẽ đưa đến tâm sợ hãi các tội lỗi,
đưa đến không phóng dật, đưa đến biết khiêm cung, đưa đến nghe lời dạy bảo, đưa
đến ưa gần người hiền, đưa đến có lòng tin vào chánh pháp, đưa đến lòng vị tha,
đưa đến tinh cần trong thiện pháp, đưa đến chế ngự các dục vọng, đưa đến thiện
giới được tuân thủ, đưa đến gần gũi bậc thánh hiền, người trí tuệ, đưa đến ưa
nghe pháp, đưa đến không quan tâm chỉ trích kẻ khác, đưa đến chánh niệm tỉnh
giác, đưa đến tâm định tỉnh, đưa đến tác ý hợp chân lý, đưa đến không lầm theo
tà đạo, đưa đến tâm tỉnh bén nhạy, tích cực, đưa đến đoạn trừ thân kiến, giới
cấm thủ và nghi, đưa đến đoạn trừ tham sân si để thành tựu đạo đức hoàn toàn vô
tham, vô sân, vô si”. (Kinh Tăng Chi III)
Tóm lại, đạo đức Phật giáo được
xây dựng trên cơ sở giới luật mà những giới luật ấy là những nguyên tắc nếu
được tuân thủ sẽ đem đến hiệu quả chế ngự dục vọng bản năng, thiết lập các mối
quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên một cách hoà
điệu; xa hơn nữa có thể tịnh hoá tâm thức thoát ly các chướng ngại và ức chế
tâm lý để sống một đời hạnh phúc chân thực.