Con người là gì?

Nơi các pháp tụ họp, có cơ thể, tình cảm, suy nghĩ, gồm lại thành một cái “BIẾT SỐNG” đó gọi là con người. Ví như cái quạt tạo nên bởi nan tre, giấy bồi, chốt sắt.

- Nan tre có phải là cái quạt hay không?

- Không.

- Giấy bồi có phải là cái quạt hay không?

- Không.

- Chốt sắt có phải là cái quạt hay không?

- Cũng không.

Vậy cái quạt là gì? Quạt chỉ là một danh từ mượn để chỉ sự kết hợp của nan tre, giấy bồi, chốt sắt.

Con người lại cũng như vậy. Không phải là những khía cạnh về vật chất, tình cảm, lý trí, riêng rẽ mà tổng hợp của cả ba thứ, cho nên không thể chủ trương có cái sống thuần nhất hoặc về vật chất, hoặc về tinh thần, như thế gian thường quan niệm (duy vật, duy tâm, duy linh…). Và vì con người bị chi phối bởi vật chất, tình cảm, lý trí, nên không có tính cách độc lập, thành không có tự chủ.

Không thể nghĩ rằng vật chất đơn thuần chi phối con người, đói phải ăn, khát phải uống, thấy đám ma thì buồn, nghe tiếng bom đạn thì sợ. Trong những trường hợp này, chính thể xác làm nô lệ cho hoàn cảnh bên ngoài hay thiếu thốn bên trong gọi là cái sống thuận chiều, tạm cho rằng ít khổ. Tuy nhiên tình cảm và lý trí vẫn chi phối và thắng vật chất: Không đói vẫn phải vì nể người mời. Đói cồn cào mà không dám ăn để giữ thể diện hay vì e thẹn… lại lúc ốm đau không thể dùng tình cảm hay lý trí để kìm hãm những hành động điên rồ: vật chất thắng.

Như vậy ba yếu tố “vật chất, tình cảm, lý trí” lúc thì dung hoà, khi thì tranh giành chen lẫn nhau, chi phối con người, cái nào cũng muốn chiếm phần thắng, làm cho con người không còn một tí gì đáng gọi là tự chủ được, ngay đến những yếu tố cũng không hành động nhất luật, lại làm cho con người không thể nào tự chủ được, dạ dày sợ cay, lưỡi lại thích ớt, thích rượu; mắt muốn ngủ mà vẫn phải mở trừng trừng theo dõi tuồng hát vì tai muốn nghe tiếng đàn dìu dặt. Đó là vật chất chống vật chất.

Nước mình đánh chiếm xứ người, mình cho là phải, là đại cuộc. Nước người tấn công nước mình, mình cho là trái, là thực dân: Đó là lý trí chống lý trí, có pha lẫn một chút sắc thái tình cảm “ích kỷ”.

Cũng là một cảnh trí mà lúc thì ta vui, lúc khiến ta sầu, ấy là tình cảm chống tình cảm. Trong ghét chứa mầm thương, trong vui nảy mầm buồn… vật chất không tự chủ được, lý trí và tình cảm cũng không tự chủ được thì con người, tổng hợp của ba cái “không tự chủ được” ấy, làm sao tự mình làm chủ lấy mình được?

Đại đế A Lịch Sơn (Alexandre Le Grand) xưng: “Tôi tự chủ lấy Tôi, như tôi làm chủ vũ trụ”. Đấy là một câu nói láo, thiếu suy nghĩ.

Cho nên Phật tử phải biết rằng: Con người chỉ là cái sống hỗn hợp của thể xác, lý trí và tình cảm, mỗi phần dành cho được lối sống của nó, không cái nào điều khiển cái nào, luôn luôn có sự va chạm, tranh thắng. Do đấy mà cái “BIẾT SỐNG” (con người) quá khổ.

Cho nên, ta sống mà không phải chính là thực sống, chỉ do hoàn cảnh làm sống.

Không tự chủ, ta sống gì đâu? Nhưng người đời luôn luôn nghĩ rằng sống có tự chủ, vì sao? Vì quanh đi quẩn lại còn thấy xác thịt, còn dựa trên cái hình bóng để phân biệt mình với anh A, anh B, phải tự hỏi: Cái gì đã làm cho ta quên sự thật mà cứ mãi nhận cái con người của ta là một thực tế? Ta sẽ về đâu? Ta phải làm gì, hãy tự hỏi như thế, tìm giải… Lời giải ở đâu? Trong Phật Pháp. Hãy tự đào lấy lời giải bằng công năng tu tập.

Lục tặc

Sáu căn thường phá rối con người gọi là sáu tên giặc “LỤC TẶC”: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và ý căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).

Tai nghe âm thanh, cố làm cho thích, từ đó con người vận dụng khả năng của mình để tạo phương tiện, làm sao cho âm thanh có mãi cung phụng cho sự thoả thích, nghe tiếng trái, ý nghĩ tìm cách xoá bỏ, cố làm sao cho tiếng trái ấy không đến nữa.

Từ chuyện tai nghe làm cho thích hoặc không ưa, nếu phương tiện không đủ, đưa đến việc buồn, chán, khổ sở… Không có máy phát thanh để hằng nghe tiếng ca trầm bổng hay không ngăn được tiếng chửi rủa càm ràm của người hàng xóm say rượu, làm sao chẳng buồn chán được.

Mắt thấy màu sắc, ý nhận rằng đẹp đẽ. Từ đó sanh tâm muốn chiếm đoạt để thoả mãn sở thích riêng mình… thấy người khác phái mỹ miều hay oai dũng bảo rằng đẹp sanh lòng yêu, khởi tâm muốn rằng người ấy phải là của riêng mình, tìm mọi cách, cố đoạt cho được, bằng không thì âu sầu khổ não. Cũng cái “yêu” ấy, nếu người khác phái xấu tướng lại yêu mình, bấu víu lấy mình thì tìm cách xa lìa cái không thích, cả hai hướng đều khổ.
Cho đến mũi, lưỡi, thân, va chạm ngoại cảnh, nếu ưa thì tìm cách làm cho cái ưa thích ấy thường có, nếu chán ghét thì cố loại trừ.

Năm căn trên làm cho ý phải suy nghĩ vơ vẩn, tìm phương tiện lo mưu tính kế, theo đó ta cứ mãi chạy theo ngoại cảnh, trôi theo sự vật mà nào sự vật có chịu đứng yên cho ta nắm được: vì sáu căn, vì phân biệt, nhận mình riêng khác, mong cầu đứng trên đồng loại, ta dấn thân vào “trần” phiêu lưu vô cùng theo nó không khi nào ta chế phục được các trần để tự soi xét mình, để thực tế nhận được mình. Đến “CHẾT” con người vẫn chưa đạt được ý nguyện, đành phải trôi lăn nữa để còn cố tìm nữa. Đó là gút mắc của dây luân hồi sanh tử.

Sáu căn làm ta dính mắc vào đời. Có khi tự nghĩ, thấy mình chạy theo dòng khổ, muốn dừng nhưng nào dừng được. Trong cái thiên biến vạn hoá của các trần, sáu căn làm duyên: Cái tự chủ của con người “không đức tin” nào khác chiếc lá giữa dòng chao nghiêng, thoăn thoắt hay dật dờ theo dòng nước.

Người đời không làm chủ được các trần, như vậy sáu căn nào khác sáu tên giặc luôn luôn khuấy phá sao?

Biết vậy, Phật tử hãy dũng mãnh chiến đấu lục tặc nội tâm “Chiến trận gay go nhất là chống giặc nội tâm. Hàng phục được giặc nội tâm, ấy là kẻ trượng phu”.

Vô ngã

Những người tu Phật, những người tìm hiểu đạo Phật đều biết rằng những gì của vũ trụ vô minh là một dòng sống liên tục, chuyển biến, ràng buộc làm cho chúng sanh ở trong ấy phải khổ triền miên. Đức Phật, người đã chứng ngộ được Chân lý, đã thoát khỏi vòng ràng buộc của sự diễn biến triền miên vô minh kia, đem những cái gì mình đã biết, mình đã mở thông và nắm chắc được trình bày lại, gỡ từng mối lầm, từng giai đoạn của vũ trụ ra, để cho những người khác thấy và làm theo. Những người chưa biết gì cả có thể tự mình, nhờ sự lắng đọng tâm tư, nhờ sự phát tâm định ý, suy ngẫm được những sự trình bày của người đã giác ngộ. Và từ đó người tu có thể nắm được, biết được Chân Lý gọi là chứng ngộ. Sự chứng ngộ có nghĩa là người tu đã thấy được Chân Lý, chúng sanh đã thấy được chân lý giải thoát sinh tử luân hồi và không còn đau khổ triền miên theo mộng tưởng nữa.

Người tu theo đạo Phật, dù là theo nhiều lý thuyết nhiều đường lối, nhưng ai cũng có thể rút ngắn lại để hiểu rằng chỉ phá ngã chấp thì tu chứng. Ngã chấp là gì? Mỗi chúng sanh, hay nói tóm lại mỗi con người của chúng ta, chúng ta sống bởi xác thịt và tư tưởng. Mình hãy suy tư thử xác thịt của mình do ở đâu sinh ra? Có phải từ cái bào thai bởi những chất nước và hơi ấm hợp lại. Nước và hơi ấm tạo lần thành có thịt, có xương, trong đó có một sự hiểu biết tiềm tàng.

Khi con người được sinh ra, ai cũng có thể biết, nếu đem phân chất thì thấy rằng trong con người có hai phần mà phần thứ nhất là Đất, Nước, Gió, Lửa. Xương, thịt, da, thuộc về Đất. (Theo khoa học Đông phương người ta phân làm năm loại là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Những chất gì cứng như là xương thì gọi là kim, những gì mềm như là thịt người ta gọi là đất, là thổ. Nhưng kim cũng ở trong thổ, có nghĩa là các loại kim đều ở đất nên nhà Phật chỉ nói đất là đủ chứ không có dùng danh từ chữ nho gọi là thổ mà trong đó gồm có kim). Nước là những phần ở trong người như nước tiểu, nước miếng, nước mắt hay là máu. Gió là hơi, con người không có hơi thì không sống được bởi không có thở ra, hít vào. Những luồng hơi ấy chạy toàn thân và làm cho có sức sống động. Lửa là hơi ấm, tức là chất nóng trong người. 

Chúng ta thấy con người gồm có Đất, Nước, Gió và Lửa. Đất, Nước, Gió, Lửa ấy tạo thành những yếu tố mà khi một người đàn ông và một người đàn bà, hai nguyên tố kia hợp lại để rồi lần tựa vào đó những gì đã diễn biến tuần tự theo tháng ngày. Con người sinh ra, lớn lên nhờ lúc nhỏ bú sữa và lúc lớn thì ăn uống. Những vật chất ấy lần lần làm cho con người càng ngày thân thể càng lớn và sự lớn ấy là tứ đại đã hấp thụ truyền giao với tứ đại để lần lần nảy nở, chẳng khác nào chúng ta trồng cây hay là trồng đậu, trồng bắp, trồng lúa, đã nhờ chất đất thu hút những gì của đất lên để sống. Tứ đại tức là Đất, Nước, Gió, Lửa.

Chúng ta suy ngẫm: “Con người mình là gì?”. Mình không thấy có mình nơi đâu. Có phải cái tay là của mình hay không? – Không phải. Có phải cái đầu của mình hay không? – Cũng không phải. Có phải thịt là của mình hay không? – Cũng không phải. Đó là những cái gì của vũ trụ vốn có trên trái đất này, vốn có đồng đều, ai cũng thế, loài vật cũng như loài người, cũng như cây cỏ, đó là Đất, Nước, Gió, Lửa. Vậy mình là cái gì? Ở đâu?

Phần thứ hai là tư tưởng, những gì mình suy nghĩ. Có suy nghĩ, có tưởng tượng, có cảm giác như là biết buồn, biết vui, biết ghét, biết giận, biết trái, biết phải, nghĩ cái này, cái khác, chợt nghĩ và chợt không, những cái đó chúng ta nghĩ rằng không phải là Đất, Nước, Gió, Lửa được. Như thế, cái đó là cái của mình? Vậy mình là cái gì? Có phải là buồn hay là vui? Nếu mình buồn thì mình buồn mãi, chứ sao lại có lúc vui? Nếu mình vui thì mình vui mãi, chứ sao lại có lúc buồn? Nếu mình nói cái này là trái thì muôn đời mình vẫn thấy nó trái mãi, chứ sao ngày mai mình lại nhận thấy nó phải? Vậy cái mình là cái tư tưởng ấy cũng không phải là có hẳn.

Đất, Nước, Gió, Lửa tựa trên nhau để làm giềng mối nên một cái sống. Cái sống ấy liên tiếp dính chặt nhau bởi bốn chất đất, nước, gió, lửa, chứ không có ta trong đó, có nghĩa là mình không thấy có mình trong bốn chất đất, nước, gió, lửa. Tìm lại tư tưởng, thì tư tưởng người nào cũng như người nào, con vật cũng như con người, thoạt vui thoạt buồn, phân biệt cái này trái cái nọ phải, phân biệt chuyện kia chuyện nọ, đây là bóng tối kia là ánh sáng, này là tiếng đàn, nọ là tiếng sáo… tất cả những cái gì chúng ta cảm giác đều nó lúc thế này lúc thế khác, không tồn tại, không thực. Như thế, cái tư tưởng thoạt đến và thoạt đi ấy không có nằm ở đâu, không có nắm bắt được, không chắc chắn nó là hình thù như thế nào, thì cũng không có mình ở trong đó.

Vậy mình là cái gì? Người đã thuyết ra cái thuyết ấy, người đã giác ngộ, đã nói ra điều đó, nhắc chúng ta rằng: Trên cái vũ trụ vô mình này, hay nói một cách rõ ràng hơn là mỗi một con người trên thế gian, nếu suy nghĩ như thế thì mình không thấy mình ở đâu cả. Vậy cái gì làm cho mình sống liên tục? Cái gì làm cho mình biết rằng có mình sống? Suy đi tính lại nhiều năm tháng ngày giờ, nhờ môn tham thiền và những phước đức khác, vọng tưởng chúng ta không còn, cái suy nghĩ hoang mang, vấn vương theo đời chấm dứt, chúng ta định ý để suy nghĩ mãi; “Mình là gì? Ở đâu? Ai sinh mình ra? Mình từ đâu đến và chết rồi đi về đâu? Cái gì là của mình để mà không thấy, để mà chạy theo đời mãi mãi, la khổ, la sướng, kết cuộc rồi cũng tiêu tan, và không biết tiêu tan rồi còn cái gì nữa?”.

Theo những điều đó suy nghĩ mãi một thời gian thì người tu thoạt nhiên thấy được cái không có mình; và không có mình tức là có mình. Không có mình có nghĩa là thấy cái đất nước gió lửa không phải của mình, thấy cái tư tưởng thoạt vui, thoạt buồn, không phải của mình, cho nên khi rời cái không phải của mình một cách chắc chắn rồi thì mới thấy cái Chân Lý hiện lại. Cái Chân Lý ấy mới là cái mình, cái mình ấy gọi là Phật Tâm, gọi là Chân Lý không sinh tử, không hề có sự đau khổ nữa. Đó là người chứng ngộ.

Người chứng ngộ như thế thì thấy rằng mình đoạn tuyệt với những gì là dòng sống liên tục của thế gian, không bị ràng buộc bởi dòng sống liên tục của thế gian nữa, không bị ảnh hưởng của đất, nước, gió, lửa và cái tư tưởng của vũ trụ vô minh xô đẩy nữa. Thế nên mình sống trong cái khoảng cách của Chân Lý và vô minh, trong đó mình được cái Chân Lý gọi là mình THẬT và thoát khỏi cái đất, nước, gió, lửa, cái tư tưởng thoạt vui, thoạt buồn. Người ấy là người chứng ngộ, gọi là người được cái Trí Tuệ căn bản hoàn toàn, hay gọi là chứng ngộ cái chân tâm, hay bản thể, cũng gọi là A-lại-da-tâm, cũng gọi là chân lý thường còn.

Người được như thế thì dù còn sống ở đời họ đã nắm lấy cái hạnh phúc hoàn toàn để họ tự sống riêng biệt lấy mình, không ai có thể biết đến. Trong thời gian họ được như thế, họ sống trên cuộc đời thì họ nghĩ rằng: “Những gì ta thuận duyên với cuộc sống, đó chỉ gọi là dư nghiệp, hay cũng gọi là dư sinh. Dư sinh có nghĩa là cái sống của đất, nước, gió, lửa và tư tưởng nọ tạm bợ theo mình, cũng như là con kiến nó bò trên trái banh, trái banh lăn thì con kiến đi theo, trái banh không phải con kiến, nhưng mặc kệ con kiến, trái banh cứ để cho con kiến nó tựa, nó bò tạm một đoạn nữa rồi nó đi đâu, nó đi. Cái Chân Lý của mình đã nắm bắt được, nhưng hiện tại cái đất, nước, gió, lửa và tư tưởng của mình đã đào tạo ra giữa cuộc đời diễn biến lầm lẫn này thì mặc kệ nó, để nó tạm tựa vào Chân Lý sống một thời gian nữa; và khi nó đã đến ngày từ bỏ thì mình cũng sẽ về với cõi sống thường còn của mình”.

Nguồn: daolamnguoi.vn 
Previous Post
Next Post