Phật Pháp không phải là sách tiểu
thuyết để đọc rồi quên đi. Phật Pháp có liên quan đến đời sống - một đời sống
thực, một đời sống mà bạn và tôi trải qua hằng ngày. Giá trị của đời sống nầy
sẽ gia tăng đáng kể khi Phật Pháp được diễn dịch ra hành động, và thấm nhập vào
tánh tình của chúng ta qua các nỗ lực thường xuyên, qua các thực tập mỗi ngày.
Mục đích tối hậu của Phật Pháp là
Niết Bàn - vượt thoát khỏi hoạn khổ. Mục đích trước mắt là giúp ta hiểu rõ và
giải quyết các vấn đề trực diện với ta trong đời sống hằng ngày, giúp ta trở
thành những con người sống an lạc, thảnh thơi và thăng bằng, sống hòa hợp với
môi trường chung quanh và những người đồng loại. Tuy thế, sự thăng bằng nầy
cũng không dễ thực hiện, nhất là trong thế giới ngày nay với nhiều giá trị ảo
tưởng và các thành kiến hư ngụy.
Khác hẳn với các giá trị tương
đối - và có khi là giả tạo - trong thời đại của chúng ta, lời dạy của Ðức Phật
là một sự khải hiện các giá trị chân thật và tuyệt đối. Chân Pháp đó cần phải
được mỗi người tự thể nghiệm. Phật giáo dạy về sự tư duy rõ ràng, sự tự chế, và
nuôi dưỡng tâm ý như là các phương tiện để thấu đạt Chân Pháp. Người cư sĩ nào
biết xây dựng cuộc sống hằng ngày trên căn bản vững chắc của tri thức giải
thoát với các lý tưởng rõ ràng thì người ấy được bảo đảm các tiến bộ và thành
công trong đời sống tại gia của mình.
Do đó, Phật Pháp là các hướng dẫn
trong đời sống hằng ngày của ta, và các nguyên tắc căn bản của đạo Phật có
những giá trị thực tiễn trong nghệ thuật sống trên đời. Người cư sĩ tại gia, trong
khi phải dấn thân vào xã hội vì cưu mang các trách nhiệm trong đời sống, sẽ
không bao giờ quên mục đích tối hậu của họ là Niết Bàn giải thoát. Người ấy lúc
nào cũng nên xem rằng đời sống của mình chỉ là một bãi tập, để sửa soạn tiến
đến thực chứng mục đích tối hậu ấy.
Kinh Ðại Hạnh Phúc (Maha-Mangala
Sutta) có nói rằng các phước hạnh thật sự của đời sống là có được "một tâm
ý có định hướng đúng" (atta-samma-panidhi). Có nghĩa là ta phải nhận thức
đúng đắn vị trí của mình trong thế gian, có quyết định đúng đắn về mục tiêu, và
tìm một con đường đúng đắn để tiến đến mục tiêu đó. Người an lạc và thăng bằng
là người có một mục đích cao thượng trong đời sống, có một đường lối tốt để đi
theo, và có một triết lý sống giản đơn nhưng đầy ý nghĩa để dẫn đường. "Triết
lý" ở đây là một ước vọng hướng thiện để thông hiểu bản tánh và tương lai
của con người trong vũ trụ. Không có triết lý như vậy thì đời sống trở nên tẻ
nhạt, buồn chán, vô ích, và vô nghĩa. Triết lý đó giúp con người sống hài hòa
với thế giới và đồng loại trong một tiến trình thăng hoa dựa theo các tri thức
chân chánh.
Trong đạo Phật, tâm ý bao trùm
vật chất. Một nét đặc thù của tâm ý là ý định. Ðể sử dụng tốt cuộc đời và
nghiệp kế thừa của mình, ta phải biết chọn một mục tiêu hướng thượng và thực
tiễn trong đời đời sống và tạo ra một kế hoạch để đi đến đó. Chúng ta sẽ trở
nên những gì mà ta mong muốn được như vậy.
Khi ta càng thông hiểu bản thân -
qua hành trì tự quán sát và tự phân tích - ta sẽ càng có nhiều khả năng để tự
cải tiến và phát triển. Thêm vào đó, ta nên tự hỏi rằng mình sẽ tiến và tiến
đến cấp độ nào trong việc tu tâm để mình trở nên độ lượng, an bình, tự tại, dịu
dàng, thông cảm, chân thật, hiền lành, chất phát, cẩn thận, tinh tấn, cần mẫn,
nhẫn nại, bao dung, và khôn khéo. Ðó là các đức tính cao quý của một Phật tử
biết sống hợp thời. Ta phải cố gắng tự cải thiện mỗi khi có cơ hội - mỗi ngày
một chút. Ta nên hiểu rằng mỗi khi mình thực hiện một hành động hướng thiện,
dần dần nó được huân tập thành một thói quen tốt. Từ các thói quen tốt đó,
chúng sẽ thấm nhập tạo thành các đặc tính cao thượng cho bản thân.
Chánh niệm (Sati) là một sự tỉnh
giác quan trọng. Chánh niệm là cách nhìn sự vật một cách khách quan, lột bỏ mọi
ưa ghét, thành kiến và thiên vị. Ðây là cách nhìn mọi sự vật theo bản thể chân
thật của chúng - các sự kiện lột trần. Khả năng làm được điều nầy đánh dấu sự
trưởng thành trong Phật Pháp. Nguyên tắc quán sát vô tư phải được áp dụng rốt
ráo trong các tư duy hằng ngày. Từ đó, sự suy tư của ta sẽ được rõ ràng, trong
sáng hơn và ta sẽ sống hướng thiện hơn, làm giảm thiểu các ảnh hưởng xấu xa tác
động vào mình, từ các phương tiện truyền thông quảng cáo tiêu thụ vật chất, và
kết quả là ta có được các tăng trưởng về các quan hệ tốt giữa con người với con
người.
Vì vậy, một Phật tử có nhân cách
thăng bằng là người phải biết tự chủ, tự quyết định, tự tạo ra các ý kiến và
kết luận khi phải đối phó với các khó khăn trong cuộc sống, dựa vào các nguyên
tắc cơ bản của Phật Pháp. Người ấy có một tri thức và luân lý dũng mãnh. Người
ấy sẵn sàng đứng một mình, theo đuổi một con đường sống của mình, cho dù người
khác có thể hiểu lầm và dị nghị. Dĩ nhiên là người Phật tử ấy phải biết đón
nhận các ý kiến đóng góp và cố vấn của người khác - bởi vì việc thu nhận các ý
kiến xây dựng từ những người có kiến thức và kinh nghiệm thì không phương hại
gì đến sự tự do chọn lựa của mình - nhưng cuối cùng rồi thì phải tự mình có
những quyết định cho đời mình.
Thấy được sự quan hệ giữa lòng
tham dục và sự khổ đau, chúng ta phải luôn luôn gìn giữ một mức độ xả ly, thoát
khỏi các ràng buộc quá đáng của thế tục. Chúng ta phải biết điều chỉnh đời sống
của mình trong kỷ cương của năm giới luật cư sĩ (ngũ giới). Từ đó, ta bảo vệ
được sự an lành của ta, trong hiện tại và tương lai, qua cách sống thuận hòa
với các quy luật phổ quát của Phật Pháp áp dụng vào đời sống tinh thần và đạo
đức của mình. Phát triển đặc tính luân lý và đạo đức (Sila - trì giới) nầy là
một điều kiện tiên quyết để huân tập tâm ý và từ đó, làm nền tảng tạo trí tuệ
(Panna) cần thiết để thực chứng Niết Bàn.
Ðời sống là vô thường, lúc nào
cũng có nhiều thay đổi. Các tai họa hoặc những việc bất ưng ý có thể sẽ xẩy ra
cho ta, và khi đó, ta phải biết trực diện chúng một cách bình thản và thăng
bằng. Nếu làm được như thế thì chứng tỏ ta đã có sự hiểu biết chân chính, biết
nhìn rõ ràng sự kiện xẩy ra theo luật nhân quả, do nhân duyên hợp thành, và
biết rằng chính ta là người gieo nhân và chịu trách nhiệm gặt quả - nếu không
trong đời sống nầy thì cũng là từ nhiều kiếp trước. Ta sẽ vượt qua các nỗi sợ hải
và lo âu thái quá, không có cơ sở và không có luận lý, bởi vì ta biết chế ngự
các cảm tính của mình. Từ đó, những ngộ nhận, những bất công trong đời, những u
sầu vì tưởng rằng mình bị đối xử tàn tệ sẽ được ta thông hiểu rõ ràng và đón
nhận nhẹ nhàng hơn, vì ta đã hiểu được cặp nguyên lý nghiệp quả và tái sinh.
Còn một lý do nữa để người Phật
tử gìn giữ tác phong triết lý của mình. Người ấy có uy lực bắt nguồn từ các
nguồn lực vô hình khác - kho tích trữ các hành động toàn thiện, các đức tính
của tự thân, các hạnh phúc có được trong lúc tập hành thiền, tất cả các nguồn
lực nầy hoàn toàn độc lập với của cải vật chất. Như thế, người ấy là chủ nhân
của một tâm ý tự lực và tự túc. Người ấy biết sống đơn giản, không có nhiều nhu
cầu. Của cải vật chất đối với người ấy chỉ là những đầy tớ, không phải là những
chủ nhân ông. Người ấy hoàn toàn tự do, không bị lệ thuộc vào sự sai khiến của
các sự vật bên ngoài. Người ấy nhận thức được rằng các sự vật thấy được thì chỉ
là tạm bợ và thay đổi luôn. Tóm lại, người ấy có được một tâm ý bình thản,
chừng mực, và tri túc. Tri túc, như lời Phật dạy, là một nguồn tài sản lớn
nhất, là một trong bốn nguồn hạnh phúc:
Không bệnh là lợi tối thượng
Tri túc là của tối thượng
Thành tín là bạn tối thượng
Niết Bàn là lạc tối thượng
(Pháp Cú, 204)
Khi đã thông hiểu như thế, người
Phật tử đó sẽ học được cách thích nghi với những hoàn cảnh đổi thay mà không
bao giờ sầu khổ than van hay cay đắng.
Nếu ta có Chánh Tín (Saddha),
nghĩa là có niềm tin nơi Phật Pháp dựa trên sự hiểu biết, ta phải cố gắng thực
hành. Mỗi Phật tử chân chính phải thực hành liên tục bốn điều tinh tấn - Tứ
Chánh Cần - vốn là chi thứ sáu của Bát Chánh Ðạo. Ðó là: tinh tấn vượt qua và
tinh tấn ngăn chận các pháp bất thiện như là các ý tưởng sân hận; tinh tấn phát
triển và tinh tấn nuôi dưỡng các pháp thiện trong tâm ý như là các ý tưởng từ
bi. Các tâm ý nầy chẳng những sẽ bảo vệ bản thân ta, mà từ đó cũng sẽ giúp được
các người khác chung quanh ta.
Ta phải tập có thói quen suy xét
về các tư tưởng và hành động của chính mình để xem chúng có chân thật hay
không, bởi vì chân thật với chính mình là một con đường chắc chắn đưa đến tâm ý
toàn thiện. Thêm vào đó, chúng ta phải biết dành thì giờ mỗi ngày để tĩnh lặng
tự quán soi hay là hành thiền, để ôn lại các việc làm trong ngày, và để suy xét
xem ta có đi ngược lại với các nguyên tắc căn bản mà Ðấng Từ Phụ của chúng ta
đã từng khuyên dạy, để mà sám hối và tránh phạm các lỗi lầm đó trong tương lai.
Mỗi ngày ta cũng nên đọc một đoạn
kinh từ các bài giảng của Ðức Phật. Thói quen hữu ích nầy giúp chúng ta phát
triển tâm ý thiện, làm giảm đi các u sầu, phiền muộn, và giúp đưa đời sống của
ta đi vào con đường chân chính.
Qua các cách thức nêu trên, là
những cư sĩ đệ tử của Ðức Phật, chúng ta sẽ luôn tăng trưởng trong ánh sáng
nhiệm mầu của Chánh Pháp, luôn luôn uốn nắn nhân cách của mình, rèn luyện tâm
thức, huân tập các cảm tính, và tăng cường ý chí dũng mãnh để tạo các lợi ích
phước báo lâu dài cho bản thân và cho người khác.
Nguyên tác: Robert Bogoda, 1996.
The Balanced Personality. In: Buddhist Culture, The Cultured Buddhist. Bodhi
Leaves No. 139. Buddhist Publication Society ,
Sri Lanka .
Bình Anson lược dịch