Nhân tướng - Nhân mạng

Chính nghiệp lực là nguyên nhân của sự phân chia các loài, các loại người và loại vật. Ta không nên so sánh giữa con người và con vật. Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là rất nhiều con vật được sống sạch sẽ và tươm tất hơn một số con người, lại cũng có một số con người sống không bằng kiếp một con vật.

Do vậy, tình thương của Đức Phật như dòng nước tràn về miền sa mạc, những chỗ thấp có thể ví như con người nước thấm trước hết, sau đó nước tràn lên và thấm nhuần hết thảy những chỗ nhô cao hơn (được ví như cõi vật và các loài khác).

Biết quý mạng sống của con vật, cũng là một cách tích đức. Hoặc giả chúng ta có thể kết thúc mạng con heo bằng một loại thuốc ngủ thay vì chọc tiết, dí điện... Hãy một lần chứng kiến cảnh các con vật bị lôi vào lò mổ thì đủ biết chúng không hề có ý cúng dường thân xác cho con người. Ngược lại, nếu ai sống bất chấp Đạo thì dễ rơi vào tình cảnh vật đội lốt người. Khó có thể tin có kẻ giết người còn móc ruột, lôi gan, chặt khúc; người chết rồi còn quật mồ, phơi xác… Trong sự quay vòng của muôn trùng kiếp, con người hẳn sẽ ít nhiều bị “lai” về dung mạo và tâm tính. Biết thương yêu loài vật (sau khi đã thương yêu con người), người ấy có nhiều cơ hội tiếp tục được thân người ở kiếp sau, có nhiều cơ hội giải thoát hơn. Người không Tu thử mang theo số người thân nhất như vợ con chẳng hạn (để chống lại sự cô đơn), rồi kéo nhau vào rừng sống thử khoảng một tháng, không mang theo kem đánh răng, son phấn, xà phòng, giấy vệ sinh… sẽ nhận ra con thú “của mình”.

Vô vàn sản phẩm công nghiệp người ta sử dụng hàng ngày, hàng giờ chính là bình phong che đậy bản ngã, che đậy thiện căn; cũng là những thứ con người “giấu giếm” phiền não, “gia hạn” khổ đau. Các bậc Giác giả đã mở được Thiên nhãn, Huệ nhãn, nên dĩ nhiên họ sẽ nhìn thấy “con thú” trong mỗi chúng sinh. Chúng sinh với Nhục/Phàm nhãn, nếu ai thấm đạo cũng có thể nhìn thấy khuôn mặt thú ẩn hiện trên mặt người… Ta thử chụp lại những khuôn mặt người trong cơn giận giữ, trong cơn say máu, rồi so sánh với chân dung các loài thú sẽ thấy sự tương đồng thú vị.

Một cô gái đẹp với tâm địa đen tối, sống trong nhung lụa, lại coi khinh kẻ khác, coi khinh động vật bậc thấp và luôn muốn thỏa mãn khẩu vị bằng nỗi đau của chúng. Khuôn mặt đẹp ấy theo thời gian sẽ hao sinh khí, trở nên vô hồn. Một tên sát nhân, hay ít nhất là một đồ tể, lần đầu tiên vô tình bắt gặp sao rợn cả mình! Một đạo sư, một người sống với tâm từ vô lượng, khuôn mặt tuy không đẹp nhưng vẫn hòa ái, gần gũi biết bao dù lần đầu ta tiếp kiến. Chung quanh mỗi người đều có trường năng lượng sạch-nhơ; những gì khoa học chưa sáng chế ra loại kính nhìn thấy đức & nghiệp ấy thì không nên phủ nhận.

Không nên hiểu sinh lão bệnh tử một cách thô thiển. Giai đoạn bệnh đến tử là một hố thẳm không đáy. Rất nhiều người không thể chết, kể cả việc muốn tự tử. Một ông già đang khỏe mạnh, cú ngã khiến bệnh viện bó tay nên bị liệt, chỉ nhúc nhích được cái đầu và nằm đến thối thịt; thương con, thương cháu ứa nước mắt, muốn dứt mệnh khỏi phiền hà đến ai cũng phải chịu, bởi đến răng cũng chẳng còn để cắn lưỡi. Vung tay quá trán ắt chạm đến thánh thần. Có trường hợp khác bị xơ gan nằm gần một năm, yếu dần, yếu dần. Những lúc đau quá anh kêu trời, hỏi tại sao từ nhỏ tới lớn không làm hại ai mà sao giờ nghiệp lại nặng như vầy. Người em vợ đã khai thị cho anh rồi mua tặng một đầu đĩa kèm VCD các sư thầy giảng pháp. Anh nghe hai ngày và gật đầu thanh thản, bảo bây giờ mới hiểu đến mức độ tinh vi của nghiệp. Từ hôm đó, anh bắt đầu lắng nghe để làm hành trang cho cuộc hành trình dài sau cái chết.

Ấy dẫu sao cũng là trường hợp muộn quay đầu về bờ. Liệu chúng ta có thể gia hạn cái chết? Có thể có. Tôi quen một người hơn năm trước đã linh cảm được vận mệnh của mình. Đến đầu năm nay, một hôm anh bị đau đớn dữ dội. Anh gọi cả nhà lên ngồi trăn trối. Người nhà tính đưa đi cấp cứu, nhưng anh ta nói “để con đi, đây là nghiệp đến đòi mạng, con phải trả”. Nói được vậy chứng tỏ người này có căn tính. Anh trai liền gọi điện tới vị sư quen biết, rồi đưa điện thoại cho em nghe. Sư khuyên, “nếu một người tham sống thì có lên viện cũng chỉ là sự “gia hạn” thôi, không chừng kiếp kế tiếp bị lôi xuống Tam ác đạo. Nhưng con hiểu đạo thì thầy khuyên từ nay quyết bỏ đường trần bước lên đường đạo, và hãy thành tâm niệm “A Di Đà Phật”. Nếu có niềm tin tuyệt đối về con đường phía trước, con cứ để gia đình đưa lên viện giữ lại thân, dùng thân đó làm việc thiện, hầu trả hết nghiệp”.

Bây giờ anh ta ăn chay trường, chuyên tâm học đạo, tâm thế luôn vui tươi, sáng sủa. Hiện tượng này không hề hi hữu, ai cũng có thể làm được nếu quay 180 độ. Tại sao? Khi nghiệp đến đòi, ví như ta nợ (hoặc người thân của ta nợ từ lúc nào ta không hay), nhưng cái chính, nghiệp nạn đến thì chắc chắn đó là nợ. Nợ nhỏ thì nạn nhỏ, nợ lớn thì nạn lớn. Người ta đến đòi mạng, ta xin với Phật cho được giữ lại mạng này để làm thiện trả nghiệp. Đây là thiện chí, Phật mười phương cảm ứng sẽ gia hộ. “Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế giới”. Nhưng giữ được mạng rồi, khỏe mạnh rồi, anh lại lấy thân hưởng thụ, không ăn chay tu tập, vẫn tạo nghiệp, thì hậu quả ra sao chắc không cần bàn.
 
Gặp nạn ai chả vác chân lên đầu mà chạy, ai kêu chi dạ nấy. Phổ biến nhất vẫn là cúng sao giải hạn. Nhiều người không học cũng nhận thức được điều vô lý: sao lại cắt cổ gà, chọc tiết lợn để cầu xin cho sự bình an của bản thân; cũng như trong một đám tang cúng đồ mặn, giết mổ ngay ở nhà, lại mời Thầy về độ siêu. Bất đắc dĩ phải ở lại, thiết nghĩ các Thầy chỉ an ủi, siêu độ cho những con vật bị khổ chủ giết, chứ chắc gì đã đến lượt vong linh. Nếu như cúng bông, hoa, trà, quả - gọi chung là cúng Thánh ấy là tấm lòng thành thì rất nên; còn như giết heo, mổ gà cúng giải hạn thì đó tương đương với tích thêm lượng nghiệp lớn. Cậy nhiều tiền bạc thả cửa giết mổ, cúng quảy, xin xỏ, thì quá lắm chỉ mời được đám yêu ma, ngạ quỷ. Chúng vẫn có thể dời nghiệp, nhưng nạn ấy sẽ nặng hơn những lần sau. “Lúc bệnh mà tin theo những thuyết họa phước vu vơ của bọn tà ma ngoại đạo, yêu nghiệt trong đời, sanh lòng rúng sợ không còn tự chủ đối với sự chơn chánh, đi bói khoa để tìm hiểu mối họa rồi giết hại loài vật để tấu với thần linh, vái van, xin cầu ban phước, mong được sống lâu, nhưng rốt cuộc không thể nào được. Bởi si mê lầm lạc, tin theo tà kiến điên đảo, nên bị hoạnh tử, đọa vào địa ngục đời đời không ra khỏi” (Kinh Dược Sư).

Nghiệp nạn thay vì dồn đến một cục lớn với sự thành tâm sám hối, phát tâm phóng sanh và hành thiện nghiệp một cách ráo riết, sẽ được chia ra, tiêu trừ. Thường một lễ cúng tốn rất nhiều tiền. Thiết nghĩ chỉ nên trích ra khoảng 10% phần trăm của lễ lượt đó hương hoa cúng Thánh, 90% còn lại trích ra khoảng ít nhất 30% làm việc thiện (giúp đỡ người nghèo, phóng sanh…). Như vậy ai cũng tiết kiệm được 60% tiền lễ trong lúc còn tích được rất nhiều đức. Bất cứ lúc nào ta tiêu xài, hễ ý nghĩ tiết kiệm nổi lên thì nên trích một phần làm thiện. Suốt đời như vậy, cộng với sự tu tập đúng hướng, ai chẳng đạt được thành tựu lớn.

Một người suốt đời không phương hại đến ai, nhưng không hề biết đến Phật pháp, nghĩa là vẫn giết chóc, vẫn một cuộc sống quá sung túc, vẫn chỉ biết vun vén hưởng thụ trong gia đình của mình; nếu đa phần những người như vậy chết đi đều được tái sinh làm người, những tưởng không cần phải Tu.

Giá ai cũng biết có được thân người vô cùng khó như con rùa mù dưới đáy đại dương 100 năm trồi lên một lần mà vô tình bám được bọng cây trôi trên mặt biển. Nếu ai cũng tin con người cũng phải “khoác áo” súc sinh nếu không tránh việc bất thiện, nếu ai cũng biết nghe lời Phật, thì trái đất này đã không tổn thọ ghê gớm, khiến nguy hại đến sự tồn vong của loài người.

Previous Post
Next Post