
Tsunami đã xảy ra vào cuối tháng
12 năm 2004 vừa qua tại các nước Ðông Nam Á Châu, quả đã chứng minh được điều
đó. Ðiều được chứng minh rõ ràng là nhà cửa, sinh mạng, của cải, đất đai, ruộng
vườn, công danh, sự nghiệp v.v... tất cả chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ đã
trở thành một cái không to tướng vô nghĩa. Người có nhà cao cửa rộng đã trắng
tay không còn một tấc đất. Người có địa vị tột đỉnh trong xã hội, sau một cơn
thịnh nộ của đất trời cũng trở thành vô nghĩa và lúc ấy chỉ còn một xác chết
không hồn, vô chủ, chẳng ai thừa nhận. Một mỹ nữ, một tăng nhơn, một em bé, một
cụ già v.v... tất cả cũng chỉ là không. Không tất cả.
Chẳng có gì là thực tướng, mặc
dầu bình sinh ta vẫn thấy có tướng nam, tướng nữ, tướng giàu, tướng nghèo,
tướng cao, tướng thấp, tướng đẹp, tướng xấu v.v... tất cả chỉ là ảo ảnh và bọt
nước. Mà đã là giả cảnh, huyễn mộng thì có ai có thể níu kéo lại với cuộc đời
nầy. Dẫu cho đó là Thần Thánh, người có quyền ban ơn giáng họa đi chăng nữa thì
cái không thể cãi lại vô thường vẫn là một sự thật mà ít ai trong chúng ta có
thể chấp nhận một cách dễ dàng được.
Mặc dầu chúng ta già; nhưng nếu
có ai đó khen ta trẻ, ta vẫn vui và nếu có ai đó thật tình bảo rằng chúng ta
già, thì chúng ta buồn và không chấp nhận. Vậy thì già và trẻ, tốt và xấu, hơn
và thua, trắng và đen v.v... nó cũng chỉ là một sự đối đãi của cuộc đời mà vốn
thật tướng của nó là không có thật. Do vậy Ðức Phật mới dạy cho chúng ta rằng:
"Cuộc sống ở thế gian nầy là giả tạo, huyễn mộng".
Cũng bởi chúng ta cho rằng cuộc
đời nầy là thật có; nên chúng ta mới khổ đau khi người thân ra đi, khi của cải
bị đánh rơi; khi không còn được thương yêu nói lời dịu ngọt nữa. Cũng bởi cho
là thật có ông Bác sĩ, bà Kỹ sư, cô Y tá v.v.. nên mới vin vào đó mà chấp ngã
và nâng cao cái ngã của mình hơn cái ngã của người khác và rồi còn bao nhiêu
cái thuộc về ngã còn đèo bồng theo phía sau nữa. Cũng vì tất cả cái nhìn của ta
đều hữu tướng, chứ chưa thật biết vốn cái gì có hình tướng đều bị vô thường chi
phối và tất cả cái gì có, đều là hư vọng cả. Như có danh, có tiền, có tình, có
của, có sắc đẹp v.v...
Phật dạy trong kinh Kim Cang
rằng: Quá khứ là những gì đã qua. Vị lai là những gì chưa đến. Còn hiện tại
biến đổi trong từng phút giây sanh diệt. Do vậy mà chúng ta biết được rằng tất
cả mọi vật trên thế gian nầy đều bị vô thường chi phối. Chẳng có cái nào đứng
yên, không có cái nào tồn tại; nên Phật bảo rằng: Các pháp đều luôn đổi thay.
Không có pháp nào đứng yên một chỗ, ngay cả pháp xuất thế gian, chứ đừng nói
đến pháp thế gian. Vậy thì cái nhìn của Ðức Phật về cuộc đời và sự vật sẽ như
thế nào? Ngài nhìn đời như sau:
Thế gian ly sinh diệt
Du như hư không hoa
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng Ðại Bi tâm
Nghĩa là:
Thế gian lìa sanh diệt
Giống như hoa hư không
Trí chẳng có và không (được và mất)
Mà tăng tâm Ðại Bi
Nghĩa đen đã giải thích như trên.
Còn nghĩa bóng là ý gì? Ðó là - dưới cái nhìn của Phật và chư vị Bồ Tát, thế
gian nầy chẳng có sanh mà cũng chẳng có diệt. Vì sanh diệt chỉ là một hiện
tượng mà thôi. Khi đã gọi là hiện tượng thì chúng không thể có thật tướng, mà
chỉ có sự biến đổi. Ví như không khí chỗ nầy trống thì chỗ kia đến choán chỗ.
Sự sinh ra và mất đi cũng chỉ là sự thay đổi vị trí chứ không mất mà cũng chẳng
còn. Vì tất cả những hiện tượng ấy cũng giống như hoa đốm trên hư không, vốn là
điều chẳng thật có. Sở dĩ chúng ta thấy hoa đốm. Vì lẽ mắt ta bị hoa chứ hư
không thực tế không có hoa đốm. Ðó chỉ là ảo giác của con người. Dưới con mắt
trí tuệ của bậc Ðại Nhân thì chẳng có sự có mà cũng chẳng có sự không. Vì có
không, chỉ là một sự đối đãi trong cuộc đời nầy. Ðiều quan trọng của chúng ta
là phải phát khởi tâm từ bi khi quan sát sự vật thì chính tâm ấy mới giúp ta
hiểu rõ được lẽ thật của cuộc đời.
Giáo lý của Ðạo Phật lấy cái
không để lập luận cho mọi sự hiện hữu trên thế gian nầy; nên tam pháp ấn (vô
thường, khổ, vô ngã) hoặc tứ pháp ấn (vô thường, khổ, không, vô ngã) làm căn
bản cho mọi nhận thức. Nếu mọi cách nhận định mà đi xa nguyên tắc nầy, tức giáo
lý ấy không phải là giáo lý của Ðạo Phật. Tại sao giáo lý của Ðạo Phật lấy cái
không để nhận định về mọi pháp? Vì lẽ thực tướng của các pháp là không và vì để
đánh mạnh vào sự hiểu biết ấy và phải thực hành giáo lý ấy cho sâu xa nên kinh
Bát Nhã, Trung Quán luận, Kim Cang đều là những bộ kinh quan trọng hướng dẫn
chúng ta chứng thực được với thực tướng của cái không ấy; từ đó ta mới có thể
hiểu rõ được bộ mặt thật của thế gian nầy là gì.
Giả dụ rằng có người nào đó hỏi
tôi rằng: Tại sao Thầy đi xuất gia? Thay vì tôi sẽ trả lời theo sự tò mò của
họ, thì tôi sẽ hỏi lại họ rằng: Tại sao anh không xuất gia? Khi anh trả lời rõ
được câu hỏi ấy, tức anh sẽ hiểu tại sao tôi xuất gia. Ví dụ câu tự trả lời của
anh là: à, à... vì tôi, vì thế nầy, vì thế kia. Vì tôi có gia đình, tôi đang có
sự nghiệp, tôi đang có con cái, của cải v.v... Rõ ràng là anh đã bị những cái
có ấy chi phối cho nên anh đã không đi tu. Vậy thì người đã đi tu là ít ra đã
thoát ra ngoài một phần nào sự chi phối ấy. Vì họ biết nhìn nhận vào mặt thật
của cuộc đời, của sự vật. Chứ không phải vì người ta chán đời mà người ta đi
tu; hoặc giả vì thất tình, mất công danh sự nghiệp mà đi tu v.v... đi tu như
thế thì biết bao giờ mới thoát khỏi được sự sanh tử triền phược của thế gian
nầy.
Có người nói tôi đã tỉnh rồi;
nhưng sau đó lại say nữa thì sự tỉnh ấy nó chỉ có tính cách đối đãi mà thôi.
Một ngày nọ tôi đi thăm người ta triển lãm về cơ thể học của con người. Họ chia
thân thể nầy ra từng mảnh nhỏ và khi đến phần buồng phổi thì người ta chia ra loại
phổi có hút thuốc lá nó nguy hại và đen đóm như thế nào; còn loại phổi không
hút thuốc lá nó đỏ và hồng như thế nào, ai xem cũng hiểu rõ là cái hại và không
hại của sự hút thuốc lá; nhưng khi mới rời khỏi căn phòng triển lãm chẳng được
bao lâu thì chính những người khi nãy ở bên trong khi xem thấy sự tai hại của
việc hút thuốc lá, đã thán lên là hút thuốc nguy hiểm như thế đó! Phổi nám đen
như vậy, mà chính bây giờ, ngay lúc nầy khi mới ra khỏi hội trường, họ đã vội
bật quẹt đốt thuốc, rít thật mạnh, nhả khói phì phà; làm như là suốt đời họ
chưa bao giờ được hút như thế. Quả thật là: Biết thân ta vẫn biết mà tiếc thân
ta vẫn tiếc là vậy.
Mọi người trong chúng ta ai cũng
biết sự nguy hiểm của thuốc lá và rượu đối với sức khỏe như thế nào; nhưng bỏ
được thuốc lá và rượu không phải là điều dễ. Mà vốn dĩ những thứ nầy do ta tự
huân tập mà thành, chứ khi sinh ra đâu có đứa bé nào đã biết hút thuốc và uống
rượu đâu. Ðó là chưa kể những loại tham, sân, si có những cội nguồn đã ăn sâu
vào trong vô lượng kiếp về trước nữa, làm sao có thể xả bỏ được.
Cái giả còn chưa biết được thì
làm sao biết được cái chơn; mà cái chơn ấy có được là cũng từ cái giả ấy mà ra;
chứ cái chơn như thật tánh ấy vốn không phải từ nơi xa lạ đến đây. Cũng ví như
khi trái cam còn trên cành, khi còn xanh ta hái lấy để ăn, thí chắc chắn quả
cam ấy sẽ chát và chua; nhưng trải qua thời gian năm thắng thì trái cam ấy khi
chín sẽ ngọt. Câu hỏi được đặt ra là: Chất ngọt kia từ đâu đến? Có rất nhiều
người tra lời rằng: Nhờ đất, phân bón, ánh sáng mặt trời v.v... những câu trả
lời như thế không sai; nhưng thực tế là không hoàn toàn đúng.
Câu trả lời đúng nhất là: Chất
ngọt ấy từ chất chua kia mà thành cũng như phiền não và Niết Bàn an lạc là một
chứ không phải là hai và Bồ Ðề tức sự giác ngộ không đâu khác hơn là từ phiền
não mà biến hóa ra Bồ Ðề. Nếu chúng ta biết tu học và giải quyết vấn đề nan
giải ấy thì mọi việc sẽ thành tựu. Ðôi khi chúng ta chỉ biết chạy trốn vấn đề
chứ không đối diện với vấn đề. Còn giải quyết vấn đề là vấn đề khó khăn hơn nữa,
cần phải đối diện thẳng với vấn đề và chấp nhận vấn đề thì mới có thể giải
quyết vấn đề được. Còn đa phần chúng ta hay chạy trốn vấn đề hơn là đối diện để
chấp nhận và giải quyết vấn đề.
Ở đây sự vô thường sanh diệt cũng
thế. Chúng ta chỉ nghĩ rằng vấn đề đó của người khác chứ không phải là vấn đề
của mình và vì không phải là vấn đề của mình cho nên ta chẳng quan tâm. Nên khi
vấn đề đến, ta rất ngỡ ngàng và lo sợ. Mới đây có người đến nhà xác để đưa tiễn
một người thân và trông thấy nhiều quan tài quá thì người kia hỏi tôi rằng:
- Thưa Thầy: Tại sao có nhiều
người chết quá vậy?
Tôi trả lời:
- Không lẽ sanh ra đời, ai cũng
sống mãi không chết sao? Bởi lẽ người ta chỉ vui khi có đứa bé ra đời; chứ đâu
có ai lo nghĩ là một ngày nào đó mình cũng phải chết đi. Vì chết là một định
luật, đâu có ai thoát khỏi.
Người kia lại tiếp:
- Chắc là Thầy quen với sự chết
rồi nên Thầy không sợ ma?
Tôi bảo:
- Ngay cả ma nó cũng chẳng có
thật tướng thì lấy gì để mà sợ. Sở dĩ ta sợ ma vì ta tin rằng có con ma như
thế, như thế; nhưng đa phần con ma ấy là ma tưởng tượng mà thôi. Cũng giống như
ta nằm chiêm bao thấy bao cảnh tiệc tùng mà ta tham dự ở Việt Nam hay ở những
nơi khác; nhưng khi mở mắt ra thì chẳng có tiệc gì cả. Vì sao vậy? Ðó chỉ là sự
huân tập của chủng tử trong nhiều nơi, nhiều lần; nên mới hiện ra như vậy. Còn
thực tướng của chơn như rõ ràng là không có sự đối đãi, mất còn, đến đi, hai
một v.v...
Rõ ràng là mộng. Tất cả chỉ là
mộng, ngay cả thân người nầy cũng chỉ là mộng; nhưng chúng ta vẫn nói nó là
thật có; mà đâu có gì là thật, khi mà đất, nước, gió, lửa mỗi thứ tan rã theo
mỗi nơi. Khi 4 chất lớn nầy tan rã thì không khí trả về cho không khí, đất đai
trả về cho đất đai, nước và lửa cũng lại như thế. Có cái gì là còn và có cái gì
là mất đâu. Tất cả chỉ là một sự thay đổi. Ta đến đây cũng chỉ để chấp nhận và
hứng chịu những sự khổ đau cũng như hưởng được một chút an lạc hạnh phúc mà ta
cho là hiện thực; nhưng trong thực tế của tánh không, thì tất cả chỉ là ảo
giác; tất cả chỉ là ảo ảnh của cuộc đời.
Một cuộc sống 30 năm, 60 năm, 80
năm hay nhẫn đến 100 năm đi nữa nó cũng chẳng là bao. Thời gian ấy so với đất
trời vạn vật nầy hiện hữu cả mấy trăm triệu năm thì sự hiện hữu của ta giữa
cuộc thế nầy nó cũng chỉ là hạt cát trong sa mạc, giọt sương mai dưới ánh nắng
mặt trời; chỉ là một giọt nước trong biển cả đại dương. Tất cả đều vô nghĩa.
Tất cả là một cái không to tướng. Ta phải quán sát như thế để ta thấy rằng ta
không là gì cả. Vì ta không từ đâu đến mà cũng chẳng đi về đâu. Sự đến và sự đi
của ta cũng chỉ là một ánh sáng nhỏ như con đom đóm giữa sa mạc hoang vu vậy
thôi.
Ta đang sống cũng có nghĩa là ta
đi dần đến chỗ chết. Ta đang khổ đau cũng có nghĩa là ta đang chuyển sự khổ đau
ấy thành ra an lạc, hạnh phúc. Ta đang si mê cũng có nghĩa là ta đang hướng về
bờ giác. Ta đang là chúng sanh cũng có nghĩa là ta sẽ đi đến con đường của chư
vị Bồ Tát và chư Phật đã đi. Hãy quên đi niềm tự hào vô cớ, hãy quên đi tự ngã
là gì, hãy quênđi tất cả. Chỉ nhớ một điều duy nhất là: Cái gì ở trên đời nầy
cũng không có thật tướng; ngay cả lời khen hay tiếng chê, đẹp hay xấu v.v...
Khi người Phật Tử chấp nhận những
nguyên tắc ấy thì chúng ta sống rất là bình an trong cuộc sống vốn chẳng an
bình nầy; chúng ta sẽ được an lạc khi tâm chúng ta hoàn toàn không có thù hận
ngự trị. Sống và chết như thế mới có một giá trị toàn hảo. Còn sống để mà sống,
chết để mà chết, thì sự sống chết ấy nó hoàn toàn vô ý vị, chẳng có gì để đáng
nói nơi đây và nhất là dưới cái nhìn của Ðạo Phật. Ðạo Phật đến với con người
và giúp con người phải hiểu rõ cái bản lai diện mục của nó là gì và phải đối
diện với tử sinh chứ không chạy trốn tử sinh. Nhìn và thực hiện giáo lý của Ðạo
Phật như thế, là một cái nhìn tích cực,chứ không phải tiêu cực như bao nhiêu
người đã hiểu sai lầm về Ðạo Phật. Do vậy ta có thể định nghĩa rằng: Ðạo Phật
không phải là đạo bi quan, cũng không phải là một đạo lạc quan, mà là một đạo
thực tế cho cuộc đời nầy. Từ đó ta sống và đi vào đời rất thong thả tự nhiên
như những Thiền sư đã thẳng tay vào chợ mà không bị chợ đời đàm tiếu thị phi,
mà dẫu cho người đời có nhìn những vị ấy là gì gì đi nữa thì tất cả cũng chẳng
là gì so với cái có và cái không trong cuộc đời nầy.
Thế gian hằng như mộng là thế.
Chẳng có gì là thật tướng cả. Vì vậy chúng ta nếu chấp nhận những thực tế thì
tánh chân như sẽ hiện về. Còn nếu chúng ta buông lung chạy nhảy, cố chạy trốn
sự thật của cuộc đời thì suốt cả hành trình sanh tử ấy chẳng có ý nghĩa gì so
với cái có và cái không to tướng kia. Dẫu cho là một bậc quân vương hay một bậc
mẫu nghi trong thiên hạ đi nữa mà không ý thức được việc nầy thì khi chết đi
cũng chẳng mang theo được cái gì ngoài cái nghiệp mà thôi. Phải ý thức như vua
Trần Thái Tông rằng: "Trẫm xem ngai vàng như đôi dép bỏ" thì mới hiểu
được thế nào là đạo và thế nào là giả tướng của cuộc đời. Nếu không, ai trong
chúng ta cũng lao mình vào khổ đau và chốn bùn lầy nước đọng, mà chẳng biết
mình đang bị hại bởi chính mình.
Viết bài nầy để tự đánh thức lấy
mình và mong cho mọi người con Phật hiểu rõ được giả tướng của cuộc đời để tự
tu tự độ và sớm vào chỗ an lạc giải thoát chơn như tuyệt đối, thì đó mới chính
là chỗ nương nhờ của chúng ta đối với cái không thênh thang của Ðạo Phật.
Chùa Viên Giác Hannover ,
Ðức Quốc.