Nếu tôi không lầm, thì kể từ khi
những làn gió lạnh len lén trở về, cũng là lúc người ta bắt đầu “mùa ăn nhậu’’.
Thực vậy, mùa mưa đã qua đi cùng
với lũ lụt và dông bão, để chào đón những ngày nắng ấm và trong xanh.
Thiên hạ thường bảo: chim chóc cứ
đến mùa làm tổ, thì con người cũng đến mùa cưới hỏi, đây chính là thời gian cho
những cặp tình nhân, trẻ cũng nhữ già, hối hả đi xây tổ uyên ương.
Mà đã làm đám cưới, thì thế nào
cũng phải có tiệc tùng. Mỗi lần nhận được thiệp hồng với một tí trà… móc câu,
là phải chuẩn bị hào bao và dạ dày để…ăn cưới.
Rải rác vào thời điểm này là
những ngày lễ lớn, như Giáng sinh, tết tây và tết ta. Để lễ được lớn và thêm
phần long trọng thì không thể thiếu vắng phần ăn nhậu, như thiên hạ vẫn thường
bảo:
- Trước là kính thánh, sau la
đánh chén.
Đúng là người ta ăn nhậu tơi bời
hoa lá, người ta tiệc tùng tưng bừng khói lửa.
Ngày xưa, lúc còn trẻ hồ hởi ăn
nhậu bao nhiêu, thì bây giờ khi đã có tí tuổi, lại cảm thấy ngán ngẩm khi phải
vác cái thân già cho đình đám bấy nhiêu.
Nào là thời giờ bị đảo lộn. Nào
là bao tử bị hành hạ… tham thực cực thân! Dẫu sao thì cũng vẫn phải đi vì tình
nghĩa, vì nợ miệng…chuyện đời mờ lị.
Vậy thì người ta ăn để mà làm gì?
Câu hỏi này quả thực xưa như trái
đất và một đứa nhỏ cũng có thể trả lời “phăng xi lô’’ rằng:
- Ăn để mà sống, chứ còn để làm
cái đí gì nữa. Khéo ỡm ờ, vờ vĩnh, vẽ chuyện!
Thực vậy, người ta ăn để mà sống.
Giống như chiếc xe không xăng dầu thì không thể nổ máy và chạy được. Cũng vậy, nếu
không ăn, không đổ “xăng’’, không bồi dưỡng, chúng ta sẽ không thể nào sống và
hoạt động cho nổi.
Kinh
nghiệm bản thân cho thấy:
- Khi bụng đói, thì mắt mờ tiệt
và tay chân bủn rủn, thậm chí con ruồi đậu vào mép cũng chẳng buồn xua.
Đặc biệt là những ngày ăn chay.
Mới kiêng nhim nhím tí xíu, mà lúc gần tới bữa, đã thấy đói cồn đói cào. Và mẹ
gã thường bảo:
- Đó là chước
mốc ma quỉ.
Không kể trường hợp suy dinh
dưỡng, mà nhiều người Việt Nam
chúng ta vốn thường mắc phải do cái bệnh nghèo, hiện nay trên thế giới hàng
triệu người đang lâm vào cảnh đói kém.
Những em bé chỉ còn da bọc xương
nằm la liệt chờ đợi chút thực phẩm nhân đạo để sống qua ngày xuất hiện dài dài
trên màn ảnh truyền hình, chẳng biết có đánh động được cõi lòng băng giá nào
không hầu góp tí tiền còm làm phúc bố thí.
Ăn để mà sống, đó là chuyện đời
thường, nhưng đời thường vốn có những cái nghịch lý của nó. Vì thế, không thiếu
gì những người sống để mà ăn.
Họ đi tìm những khoái cảm trong
việc ăn uống. Có những bữa tiệc thâu đêm suốt sáng, kéo dài từ ngày này qua
ngày khác. Ăn no uống đủ nhưng vẫn chưa đã. Và thế là “a-lê-hấp’’ móc cổ họng
cho chó ăn chè để tiếp tục nhậu nữa. Tiệc một chưa đủ bèn rủ nhau gầy sòng làm tiệc hai.
Bên cạnh những kẻ thiếu ăn, có
những bàn tiệc mâm cao cỗ đầy, thức ăn thừa mứa, mà mỗi khẩu phần trị giá bằng
cả một năm lao động cực nhọc của những kẻ khố rách áo ôm. Đúng là tác phong ném
tiền qua cửa sổ.
Thánh kinh diễn tả rất đúng về
hạng người thừa tiền và rửng mỡ này, khi gọi họ là những kẻ chỉ biết lấy cái
bụng của mình làm chúa, “quorum deus venter est’’!
Tiếp đến, người ta thường ăn
những gì?
Thưở ban đầu, khi còn là những bộ
lạc du mục, người ta ăn những gì kiếm được trên rừng như: hoa trái, thịt thà,
cá mú… và thường là ăn sống nuốt tươi cho đến khi tìm ra lửa.
Với lửa, người ta bắt đầu chế
biến những thức ăn tươi sống thành những món cao lương mỹ vị. Từ đó nghệ thuật
nấu nướng không ngừng phát triển.
Nếu là một triết gia, hẳn gã đã
phát biểu một cách rất hách xì xằng như
sau:
- Người là một con vật biết nấu
nướng.
Lời phát ngôn này chắc chắn sẽ được treo ở các nhà
hàng, tiệm ăn và xó bếp.
Có lần gã định viết một luận án
phó tiến sĩ về vấn đề này.
Đường đường là một đấng nam nhi,
mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, gã bèn truyền cho mấy cô em gái giao nộp
cho mình tất cả những cuốn sách nữ công gia chánh.
Suốt mấy tuần liền chúi mũi vào
đống sách ấy để mà…”ngâmkíu’’. Từ bản mục lục phân tích do mình tự biên tự
diễn, gã nghiệm ra rằng thì là mọi món ăn đều được chế biến dưới bốn dạng khác
nhau:
- Dạng thứ nhất qua nước hay hơi
nước như: luộc, hấp…
- Dạng thứ hai qua dầu mỡ như:
chiên, xào…
- Dạng thứ ba qua lửa như: nướng…
- Dạng thứ bốn
là chơi tươi sống như ăn gỏi…
Nắm vững bốn dạng này, rồi tùy cơ
ứng biến, thêm mắm thêm muối, thêm hành thêm tỏi, uyển chuyển trong cách thức
trình bày, để mà thiên biến vạn hóa, trở thành những món ăn khác nhau, vừa bắt
mắt lại vừa khoái khẩu.
Thế nhưng, bao tử con người vốn
có những đòi hỏi kỳ cục, hay nói đúng hơn người ta càng bày ra những món ăn lạ
đời thì lại càng nổi tiếng.
Chẳng hạn như máu nào chẳng là
máu, nhưng khi ngả thịt con bò, phải múc lấy bát màu từ trong lồng ngực của nó
mà…húp xùm xụp, thì mới bổ béo.
Dân ghiền thịt rắn, trước khi xơi
thịt phải uống máu nó bằng cách treo con rắn lên chặt mẩu đuôi, rồi kê miệng
vào đó mà mút như cu Tí bú sữa mẹ, hay để cho những giọt máu ấy nhỏ xuống ly
rượu nồng rồi chuyền tay nhau mà uống.
Và theo những thày lang chính
hiệu con nai vàng, thì đây mới đúng là “tửu xà’’ rượu rắn thứ thiệt đại
bổ. Uống vào không bổ ngang cũng bổ dọc,
và nếu lỡ quá chén chút xíu, bảo đảm sẽ… “bổ chẩng’’ liền tại chỗ.
Thiên hạ có kể cho gã nghe câu
chuyện sau đây:
Ngày xưa, Từ Hi Thái Hậu bên Tàu
mở tiệc thiết đãi các ông tây bà đầm. Bữa tiệc có một món đặc biệt đó là món óc
khỉ.
Bàn ăn được khoét một lỗ nhỏ cho
mỗi người. Dưới lỗ nhỏ ấy là một hộc bên trong nhốt một con khỉ. Chỏm đầu con khỉ vừa vặn với lỗ nhỏ ấy.
Tới lúc thực khách xơi món này,
người ta chỉ cần dùng một con dao thật sắc, phạt ngang một phát, bay luôn chỏm
đầu cho óc khỉ hiện lên. Thực khách chỉ cần nêm vào đó chút muối tiêu chanh,
rồi dùng thìa mà múc như khi ăn… vịt lộn vậy.
Một định luật kinh tế được áp dụng trong phạm vi
nghệ thuật ăn uống đó là phàm cái gì càng hiếm thì lại càng quí. Mà càng quí
thì lại càng mắc.
Thẩn thơ trên hè phố Sàigòn, tôi
đã từng đọc thấy những mẩu quảng cáo của các nhà hàng đặc sản. Thôi thì từ rùa,
rắn, chuột đến khỉ, nai, tê tê… tất cả mọi thứ trên trời, dưới biển cũng như
trong rừng đều chui tuốt luốt vào cái bụng con người.
Thảo nào mà có biết bao nhiêu
loài động vật quí hiếm đang dần dần bị tuyệt chủng. Mai mốt con cháu mình chỉ
còn thấy chúng qua hình ảnh của những trang sách nằm trong thư viện mà thôi!
Đồ ăn thì để mà ăn, đó cũng là
chuyện đời thường. Tuy nhiên, có những thứ không thể đút vào miệng mà ăn, thế
mà người ta vẫn cứ phải ăn hay cứ vẫn muốn ăn.
Trước hết, có những thứ không thể
ăn mà vẫn phải ăn, nổi cộm trong lãnh vực này đó là ăn đòn.
Gã nhớ rất rõ, hồi còn bé ít khi
nào ba gã cho gã ăn đòn. Nhưng đã cho ăn, thì phải ăn đến nơi đến chốn, không
biết bao nhiêu roi mà kể.
Việc ăn đòn cũng có mục đích cao
cả của nó. Cha mẹ cho con cái ăn đòn là để giáo dục chúng, cho chúng biết vâng
lời. Còn trong chốn giang hồ, xã hội đen, thì cho nhau ăn đòn là để đánh phủ
đầu, dằn mặt nhau lần sau chớ có làm như vật nữa. Con nít Tây phương bây giờ
được pháp luật bảo vệ, chẳng được… ăn đòn, nghĩ cũng uổng.
Tiếp đến, có những thứ không thể
ăn mà người ta vẫn muốn ăn, đó là ăn tiền.
Thực vậy, nhìn vào cuộc sống
chúng ta thấy có biết bao nhiêu mánh mung, có biết bao nhiêu cách thức để ăn
tiền của nhau.
Gã nghĩ rằng ăn tiền đó là cả một
nghệ thuật, cũng thiên biến vạn hóa đến qủy thần cũng không lường nổi.
Gã xin kê đơn hoàn tán, đại khái
như sau: ăn bẩn, ăn hối lộ, ăn bòn, ăn cắp, ăn cướp, ăn trộm, ăn chận, ăn gian,
ăn quỵt, ăn bớt… Tất cả những kiểu này đều có một mẫu số chung là tiền.
Hiện nay việc ăn hối lộ là một
cơn bệnh trầm trọng, không riêng gì Việt Nam, mà hầu như quốc gia nào cũng mắc
phải. Nó làm cho dân chúng khổ cực, đất nước nghèo túng và chính quyền sụp đổ.
Nhưng thấy tiền ai mà chẳng muốn
xơi, nhất là tiền chùa của nhân dân cũng như của nhà nước.
Một đứa con nít cũng thấy được
quyền lực và giá trị của đồng tiền:
- Có tiền mua tiên cũng được
- Tiền là tiên là phật
Là sức bật của người già
Là cái đà của danh vọng
Là cái lọng để che thân
Là cái cần của công lý
Ăn tiền là chuyện khó. Nhưng chùi
mép sau khi đã ăn tiền cũng lại là chuyện khó nữa. Vì nếu không khéo chùi mép,
chắc chắn một lúc nào đó sẽ thân bại danh liệt, nằm bóc lịch trong nhà đá mà than thở:
- Của Cêsar trả cho Cêsar… Của
thiên trả địa…sự giả trá thế gian là như thế đó.
Sau cùng gã xin viết thêm chút
xíu nữa cho câu hỏi:
- Phải ăn như thế nào?
Kinh nghiệm cho thấy: nhân cách
con người được biểu lộ rất rõ trong khi ăn.
Thực vậy, người tham thì muốn xơi
luôn phần của kẻ khác. Gã nhớ mang máng trong một cuốn sách nào đó về phép lịch
sự có kể mẩu chuyện như sau:
Bàn ăn có bốn người. Đĩa có bốn
miếng giò. Anh chàng tham ăn gắp cá cặp một phát hai miếng liền, rồi giả bộ vẩy
vẩy để cho nó bong ra.
Thế nhưng, người ngồi cạnh bèn kê
tủ đúng vào miệng hắn ta mà nói:
- Anh có lấy chân mà đạp, thì nó
cũng chẳng bong ra đâu.
Người bất lịch sự thì chỉ biết
cúi mặt xuống như muông chim mà ăn lấy ăn để, chả còn lưu ý tới kẻ khác. Họ có
thể ợ ngáp như ở trong phòng riêng. Họ có thể húp canh sùm sụp như biển gầm
sóng vỗ, muốn trôi cả bàn ghế và những người chung quanh.
Vì thế, cha ông chúng ta đã dạy:
- Học ăn học nói học gói học mở.
- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
Tuy nhiên, có một góc cạnh của
bữa ăn chúng ta cần lưu ý đó là bầu khí yêu thương.
Thực vậy, bữa ăn là lúc qui tụ
những người có cùng một mẫu số nào đó. Mẫu số ấy có thể là tình nghĩa ruột thịt
như bữa ăn trong gia đình, cũng có thể là một niềm vui hay một nỗi buồn như
tiệc cưới, đám giỗ…hay công việc làm ăn.
Trước hết, những người cùng bàn
chia sẻ với nhau thức ăn, nguồn sinh lực
cho thân xác. Trong cuốn “Người Việt cao quí”, tác giả Pazzi đã ca tụng chén
nước mắm của mâm cơm Việt Nam .
Hơi mất vệ sinh một tý đấy nhưng lại là một biểu tượng của chia sẻ và hiệp
thông.
Tiếp đến, những người cùng bàn
còn chia sẻ với nhau niềm vui và nỗi buồn… vì vậy cần phải tạo ra một bầu khí
yêu thương cho bữa ăn, đừng biến nó trở thành phiên tòa xử án con cái hay trở
thành một dịp để đả kích, chửi xéo lẫn nhau vì:
- Trời đánh còn tránh bữa ăn.
Gia đình Việt Nam đâu cần đến những thứ cao lương
mỹ vị mới nồng nàn yêu thương, trái lại chỉ cần:
- Canh tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Viết đến đây gã cảm thấy hết
chất, bèn phải vác tự điển ra để tra cứu và tham khảo thêm, gã bỗng khám phá ra
rằng: phạm trù ăn là một phạm trù quan
trọng vào bậc nhất trong ngôn ngữ Việt Nam .
Thực vậy, để diễn tả động tác
“ăn”, ngôn ngữ Việt Nam
thật là phong phú.
Trang trọng thì:
- Xơi, mời…
Bình thường thì:
- Ăn, dùng…
Vui vẻ thì:
- Nhắm, nhậu, lai rai…
Bực bội tức tối thì:
- Đớp, hốc…
Nếu Phạm Quỳnh đã viết:
- Dân An nam ta phàm cái gì cũng
cười.
Còn gã, gã cũng có thể xác quyết:
- Người Việt Nam chúng ta phàm cái gì cũng ăn.
Vui cũng ăn như ăn cưới, an khao.
Buồn cũng ăn như ăn đám ma, ăn đám giỗ.
Trong “Việt Nam từ điển” của Lê Văn Đức, gã đếm
được cả thảy hơn một trăm năm chục tiếng được nghép với chữ ăn, như: ăn chay,
ăn chực, ăn vụng… Thậm chí có những hành động chẳng hề liên hệ tới mồm miệng
hay lục phủ ngũ tạng mà vẫn được ghép với chữ ăn như: ăn đòn, ăn gian, ăn trộm, ăn năn…
Gã không biết Thượng đế có bé cái
lầm hay không khi trao ban cho mỗi người chúng ta một cái miệng. Công dụng của
cái miệng là nói và ăn.
Rất nhiều lần chúng ta đã phải
khổ sở vì những lời dèm pha đầy ác ý. Lưỡi người còn sắc hơn cả gươm giáo và
độc hơn cả nọc ong. Số người chết vì cái lưỡi còn nhiều hơn vì chiến tranh. Lời
nói có thể làm cho chúng ta thân bại danh liệt, tiêu tan sự nghiệp.
Còn cái khoản ăn cũng không kém
phần nhiêu khê và rắc rối. Người ta lao động quần quật cũng để tìm kiếm của ăn
đút vào miệng. Cái miệng con người đã làm cho bao súc vật bị tuyệt chủng, cây
cối đi đến chỗ xác xơ tiêu điều… và đến núi cũng phải lở.
Rồi những cuộc chiến tranh giữa
người với người đã xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Ôi, miếng ăn quả là miếng nhục.
Giá như con người không phải ăn
nữa thì sẽ lợi biết bao nhiêu. Lợi được thời gian. Lợi được công sức. Lợi được
tiền bạc. Nhưng mà có lẽ lúc bấy giờ đời cũng sẽ buồn đi rất nhiều.
Vì thế, gã vẫn cứ phải chịu khó
ăn để mà sống mỗi ngày, cho dù là ăn những của đắng đót.