Trong hoạt động tinh thần, đạo đức có một tầm quan trọng đặc biệt bởi đạo đức có mặt và xuyên suốt trong mọi hoạt động con người. Nó là một trong những hình thái ý thức xã hội và được xếp vào kiến trúc thượng tầng. Vì nó tác động trực tiếp vào hạ tầng cơ sở… nó… có đặc thù riêng… vừa là kiến trúc thượng tầng đồng thời cũng lại ở hạ tầng.
Đạo đức là gì?
Hai từ này là từ gốc Hán đã được Việt hóa. Đạo dùng chỉ con đường. Đức chỉ phẩm chất tốt đẹp của con người ứng xử với con người và cộng đồng xã hội cũng như môi trường sống.
Thế nên đạo đức là quan điểm tư tưởng là hành động sống của con người được thể hiện hàng ngày trong cách đối xử giữa con người và con người, con người với xã hội và thiên nhiên, môi trường sống. Nó là những vấn đề rộng rãi bao trùm khắp không thể diễn bày hết.
Con người từ khi còn đang sống thành bầy đàn, đạo đức đã trở thành những điều cần thiết như đồ ăn thức uống. Hàng ngày đi kiếm ăn, hái lượm, săn bắt đã nảy sinh các nhu cầu phải nhường nhịn chia xẻ miếng ăn cho nhau, phải biết thương yêu, không cậy mạnh hiếp yếu, không đánh đập giết hại nhau, lớn phải nhường bé, trẻ phải nhường già, phải thân ái, giúp đỡ, đoàn kết tạo nên sức mạnh giúp đỡ nhau.
Đó là những điều thiết yếu để đảm bảo cho cuộc sống được yên vui cộng đồng sinh sống có trật tự. Những đều đó không phải là lệnh của người cầm đầu, không phải là qui định, không có tính bắt buộc, nó xuất phát từ lương tâm, tình yêu và trách nhiệm, đó là cơ sở của nền đạo đức sau này.
Xã hội loài người ngày càng phát triển vì của cải ngày càng gia tăng, nhu cầu sống càng phong phú, đạo đức cũng ngày một phát triển đáp ứng cuộc sống.
Loài người đã trải qua các chế độ xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiên, tư bản và vừa qua một số nước đã bước vào thời kỳ quá độ của xã hội chủ nghĩa.
Mỗi chế độ xã hội, người ta thiết lập một nền đạo đức phù hợp quan hệ và phương thức sản xuất, phục vụ cho hệ tư tưởng chính trị xã hội và quyền lợi của tầng lớp cầm quyền. Do vậy các nền đạo đức đều chịu sự tác động của hệ thống chính trị tư tưởng chi phối. Nó luôn vận động phát triển, nên vô thường. Nó xuất phát từ mục đích quyền lợi thống trị, nên mang tính dục, tính ác dù nó được coi là tiến bộ đến đâu đi chăng nữa.
Đạo đức chế độ phong kiến nước ta cốt lõi là tam cương ngũ thường. Nó ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Khổng – Mạnh của Trung Quốc.
Tam cương là qui định về ba quan hệ: Vua tôi, cha con, chồng vợ.
Quan hệ vua tôi là: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung". Quan hệ cha con là: "Cha mẹ đặc đâu con ngồi đấy" hoặc "Muốn nói ngoa làm cha mà nói". Quan hệ vợ chồng là: "Phu xướng phụ tùng" người phụ nữ phải tứ đức tam tòng – "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử".
Hôm nay nhìn lại ta càng thấy rõ cái vô đạo đức của một nền đạo đức đã kéo dài hàng ngàn năm với loài người.
Vua chúa là tầng lớp ăn trên ngồi trước, sống cuộc sống xa hoa, đài cát trên mồ hôi nước mắt của muôn dân. Vua nhận vua là Thiên tử - con của Trời (Trời là quyền thế nhất sau đến vua quan) là cha mẹ của dân, sinh ra để chăn dắt dân, dân là quần chúng; quần chúng có nghĩa là bầy đàn như đàn cừu, đàn ngựa chẳng hạn. Đó là quan điểm đạo đức là sự nhìn nhận phân biệt đẳng cấp con người của chế độ phong kiến.
Vua được gọi là bậc "minh quân". Đã là vua là minh quân nhưng thực ra triều đại nào cũng không ít "hôn quân", "tà quân".
Trước nhất họ là một con người – một phàm nhân, cả ba nơi thân, khẩu, ý, của "Thiên tử" là nơi tột đỉnh quyền lực nên cái ác phát ra cũng tột đỉnh! Thế gian có chuyên năm thê bảy thiếp cũng đã là bất công, lạc hậu, tội ác nhưng minh quân vị nào cũng vài chục mỹ nữ cung tần, ngày đêm đắm mình trong tửu sắc hoan thú mà lại bảo người "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" thì thật là nực cười, đâu còn là công lý là đạo đức?
Người phụ nữ bị cột chặt vào cha, chồng, con như xe theo trâu kéo, họ chỉ còn là công cụ của gia đình và xã hội. Tư tưởng đó sao được gọi là đạo đức?
Đạo đức chế độ tư bản đề cao cái "Tôi", hô hào giải phóng cái "Tôi" nên cái tôi mới nổi lên choán hết cả công lý. Xã hội tư bản tất cả là tiền, mọi giá trị đều có thể đo bằng tiền. "Có tiền mua tiên cũng được". Con người đối mặt với tiền, tham đắm vật chất, ngày càng trở nên lạnh lùng băng giá. Một xã hội mà cái tôi được kích động phát triển tự do tột bực tham, sân, si sẽ chất ngất, xung đột cá nhân, mâu thuẫn đối kháng xã hội sẽ ngày càng nổ ra quyết liệt, chiến tranh xâm lược, xâm chiếm thị trường, bóc lột khai thác thuộc địa sẽ là tất yếu.
Tất cả những vấn đề trên cho thấy dù bất cứ nền đạo đức nào, tuy xã hội sau tiếp thu kế thừa và tiến bộ hơn xã hội trước nhưng dù có tiến bộ đến đâu chăng nữa nền đạo đức ấy cũng không thể là cao đẹp chân thực và chân lý.
Không phải chân lý vì nó vô thường, vì nó sinh ra trong tham dục và quay lại phục vụ tham dục. Nó không phải chân lý bởi nó không vĩnh hằng. Nó là cầu là đáp ứng nhu cầu cuộc sống hiện tại nhưng chưa đủ, chưa hoàn toàn mang đến sự an vui hạnh phúc cho con người.
Vậy thì nền đạo đức chân lý và vĩnh hằng ấy ở đâu? và nó ra sao?
Xin thưa: Nó ở mọi chỗ, mọi nơi, mọi lúc, trong toàn bộ hoạt động đời sống hằng ngày của con người. Nó là "Đạo đức nhân bản – nhân quả". Nó như vàng vốn nằm trong đất mà bấy lâu ta không biết đường để lấy.
Vậy "Đạo đức nhân bản – nhân quả" là gì?
Nhân là từ đã được Việt hóa, gốc của nó là chứ Hán. Nhân chỉ con người – Còn Bản là gốc.
Có ba nơi xuất phát hành động tốt xấu của con người là Thân, Khẩu, Ý. Ba nơi này đều từ con người nên được gọi là nhân. Nó từ chỗ ấy mà ra và lấy chỗ đó làm gốc nên được gọi là bản – Ghép chung hai khái niệm thành cụm từ "Nhân Bản".
Từ ba nơi thân, khẩu, ý xuất phát muôn vàn hành động thiện và ác. Hành động ấy là nhân, tiếp theo hậu quả những hành động ấy… khổ hay vui gọi là quả - Các từ này liên kết nhau thành cụm từ "Nhân Bản – Nhân Quả".
Cái lõi chính, cái bản chất và đặc trưng của "Đạo đức nhân bản – Nhân quả" là gì? Đó là "SỐNG KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH KHỔ NGƯỜI".
Nếu mọi người đều biết ý thức điều đó trước khi hành động thì toàn bộ hoạt động của con người trên hành tinh này đều là đạo đức, mọi người được sống thanh thản an vui, xã hội phồn thịnh, thế gian thành thiên đường.
Mọi người đều sống không làm khổ mình khổ người, thì đau khổ sẽ hết chỉ còn lại là niềm vui, "Sống không làm khổ mình khổ người"! Chỉ có sáu chữ nhưng đó là phương châm là cốt lõi "Đạo đức nhân bản – Nhân quả".
Đơn giản như một bước đi, bước đi vội vàng không nhìn xuống, dẵm tràn làm chết con sâu, con kiến, bước chân đã gây quằn quại khổ đau thế là bước chân thiếu đạo đức nhân bản – nhân quả. Đi có ý thức tỉnh giác bản thân thanh thản không gây chết chóc đau đớn cho côn trùng là Đạo đức nhân bản – Nhân quả; một cái liếc mắt nhìn ngang hoặc nhìn chằm chằm gây cho người khác khó chịu là thiếu đạo đức.
Thật dễ nhìn ra việc làm có đạo đức hay không một khi ta biết tự hỏi mình đó là việc thiện hay việc ác? - Nếu không làm khổ mình khổ người đó là việc thiện thuộc đạo đức. Nếu ta khổ, người khổ, hoặc cả hai đều khổ là ác tức thiếu đạo đức hoặc không có đạo đức.
Sống giữa khu phố, làng xóm anh A mở đài hoặc thích nghe ca hát vặn âm lượng hết cỡ khiến bao nhiêu người sống xung quanh khổ sở vì không thích nghe mà vẫn phải nghe, họ đang cần yên tĩnh mà không được yên tĩnh. Thậm chí ốm đau đang cần sự yên tịnh mà phải chịu đinh tai nhức óc… thế thì hành động mở đài đã thành hành động vô đạo đức nhân bản – nhân quả. Như một túi ni long đựng bánh trái ăn xong vứt bừa bãi, làng khói thuốc lá phả ra chỗ đông người, một cái hắc hơi thiếu kiềm chế khiến người ngồi gần dật mình, những chuyện đó nếu đem đối chiếu với "Không làm khổ mình khổ người" thì nó sẽ hiện ra ngay như vật đặt trước gương có hay không có "Đạo đức nhân bản – nhân quả".
Cũng như thế, ta xem một người thầy thuốc, ông ta được xã hội đào tạo để thành người có nghề nghiệp. Tri thức mà ông có chính là trí tuệ của bao lớp người đi trước – Tay nghề ông giỏi chính là kinh nghiệm máu xương của bao người để lại gởi gắm cho đời sau. Ông là Bác Sĩ, có nhiệm vụ quay lại phục vụ cộng đồng xã hội. Bổn phận ấy Ông làm chưa tốt, hiệu quả chưa cao, bệnh nhân chậm khỏi, chỉ thế thôi cũng đã là thiếu đạo đức nghề nghiệp và tinh thần phục vụ.
Chưa nói đến chuyện có Bác Sĩ, trước phòng làm việc dán khẩu hiệu to tướng "Lương y như từ mẫu" nhưng việc làm ngược lại. Bệnh nhân vào viện hoặc cần đến mà không có phong bì kèm theo thì lạnh nhạc thờ ơ, sống lãnh đạm thản nhiên trước nỗi đớn đau, trước nước mắt và tiếng kêu rên thảm thiết của con bệnh. Kẻ ốm đau là kẻ đang trong cơn hoạn nạn, thân xác đớn đau tiền tài hao tổn.
Nhiều khi phải vay mượn nợ lãi trước cái chết rập rình đe dọa. Trong lo âu buồn khổ, lúc ấy con người mới cần, mới thấm thía sự cảm thông an ủi của đồng loại. Họ khát khao tình thương như hòn vôi tôi khát nước. Nhưng chính lúc ấy họ lại là đối tượng, là lúc làm tiền cho kẻ bất lương được mệnh danh "Chữa bệnh cứu người". Đó là cực ác, là vô đạo đức.
"Nhân sinh bách nghệ", nghề dạy học xưa nay là nghề cao quí. Nghề được xã hội tôn vinh gọi người dạy là thầy. Họ là người khai sáng mở mang tri thức là công việc giáo dục đào tạo con người để thành những thành viên hữu ích cho xã hội. Nhưng hôm nay không ít ông, bà "Thầy" trên lớp cốt dạy cho hết giờ, đầu óc, tri thức, nhiệt tình thì dồn vào chỗ dạy thêm để kiếm tiền! Họ nghiễm nhiên coi đó là cơ chế thị trường trong khi đó mức lương ngành giáo dục là mức lương được xã hội ưu tiên dành cho cao so với nhiều ngành nghề khác. Còn lại có những trường hợp thật xấu hổ, khi trò không có điều kiện đóng tiền học thêm, thầy phản ứng, luôn tỏ thái độ lạnh nhạt dửng dưng hoặc không có tiền không cho học. Đó là những hành động ác, vì lợi mình, làm khổ người nên không thể có đạo đức nhân bản – nhân quả. Làm đúng bổn phận, làm nhiệt tình là đạo đức.
Thái độ sống chỉ biết mình, không cần biết đến người như những kiểu trên hôm nay phổ biến ở khắp chỗ này chỗ kia, trên mọi lãnh vực cuộc sống.
Đạo đức cách mạng dạy người cán bộ phải là đầy tớ trung thành của dân nhưng dân có việc đến kêu chỗ nào cũng gặp chướng ngại, cữa quyền, quan liêu, hách dịch, tắc trách. Có quyền nên mới cữa quyền, họ không cần nguyên tắc, không cảm thông nỗi khổ của người đến xin phép – quà cáp, đút lót, phong bì đã trùm lên công lý và đạo đức. Nếu biết bỏ hết thói xấu ăn đút lót, hết lòng phục vụ nhân dân như thế là sống có đạo đức.
Hôm nay thói ác ấy cũng được thế tục hoá luôn cả nơi Tam Bảo (cữa chùa). Không thiếu gì các Phật tử giàu có cúng dường nhiều thì được Thầy chùa săn sóc mời mọc, chào đón dòn dã, cùng lúc đó kẻ nghèo khổ đến Tam bảo, lễ vật đơn sơ thì được Thầy chùa lặng lẽ nhìn xuống – Ai đại phước duyên mới được Thầy ban câu Mô Phật!
Hành vi ứng xử ấy làm buồn làm khổ lòng người, làm kẻ giáu có thêm cao mạng vênh vang, người nghèo khổ tủi phận. Đó là hành động ác, không có đạo đức nhân bản. Không làm như vậy coi giàu nghèo bình đẳng là đạo đức.
Tất cả các hành động trên đây đều rơi vào vừa làm khổ mình vừa làm khổ người, hoặc làm khổ mình hoặc làm khổ người đều là không có đạo đức nhân bản – nhân quả. Không rơi vào đó, là sống có đạo đức.
Đạo đức nhân bản – nhân quả là đạo đức xuất phát từ chỗ không làm khổ mình không làm khổ người nó cũng được kiểm nghiệm lại xem đúng hay không chính là chỗ ấy.
Chỉ một mục đích, một bản chất duy nhất đó, nó không hề nhằm phục vụ cho một giai cấp, một chế độ hoặc một hệ tư tưởng nào. Nhưng ngược lại, bất cứ chế độ xã hội nào, cũng cần nền đạo đức với những hành động mang bản chất tình thương chân thực đó. Vì thế nó tồn tại và đi suốt thời gian, đi với loài người qua mọi chế độ xã hội, qua bao thăng trầm mà không bị đổi thay. Nó chỉ một mực không làm khổ mình, khổ người. Đấy là đạo đức nhân bản – nhân quả. Nó là chân lý, nó tồn tại vĩnh hằng mà cách đây hơn 2500 năm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ ra nay Đức Thầy Thích Thông Lạc Bậc A La Hán làm cho nó sống lại với loài người.
Mọi nền đạo đức được sinh ra phục vụ cho một chế độ xã hội bất kỳ… đều phải chết theo khi chế độ xã hội đó kết thúc. Nếu còn lại chỉ là những tàn dư, những mảnh rơi rớt… cũng giống như cây đã đánh bật gốc thì cành lá phải héo khô…
Chế độ tư bản đã kết án chế độ phong kiến. Tư bản hò hét giải phóng con người, giải phóng sức sản xuất, đề cao vai trò cá nhân thì tiếp đó chế độ xã hội chủ nghĩa tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân xây dựng đạo đức "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Hôm nay dù xã hội chủ nghĩa hoặc tư bản cũng đều không thể chấp nhận đạo đức "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" nhưng đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, không làm khổ người thì dù tư bản hay xã hội chủ nghĩa cúng không thể phủ nhận, có đến lúc loài người "di cư lên hành tinh khác" vẫn phải mang theo vì tư tưởng đạo đức ấy là trí tuệ là chân lý. Nó thực sự mang đến cho con người cuộc sống an bình hạnh phúc, xã hội trật tự văn minh, phồn vinh thịnh trị.
Tư tưởng đạo đức đó muôn thuở không bao giờ trở thành lạc hậu. Nó mãi mãi là mặt trời với nguồn sáng vô tận chân lý!
Đạo đức nhân bản – nhân quả thể hiện bình đẳng giữa con người và con người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, không kể màu da, sắc tộc, tôn giáo quốc gia, văn minh hay chậm tiến. Không chỉ thế, đạo đức nhân bản – nhân quả với tinh thần không làm khổ mình khổ người đã tạo nên tình thương yêu, gắng bó, tôn trọng sự sống muôn loài từ cỏ cây, chim muôn, cầm thú… Chỉ có đạo đức nhân bản – nhân quả mới coi trong, yêu thương và bảo vệ thiên nhiên giữ gìn vệ sinh môi trường sống như vậy.
Cũng từ những việc đó, đạo đức nhân bản – nhân quả đã thực sự nâng con người trở nên cao thượng.
Con người vốn từ động vật mà ra, dẫu là động vật cao cấp nhất thì vẫn còn tính vật. trong cụm từ "con người" vẫn có một từ chỉ "con".
Loài thú bản chất là độc ác, ngu si hung dữ. Chúng sống bằng sự tranh cướp mồi, bằng sự sát hại nhau. Con người thoát ra từ thú nên trong nhiều hành động vẫn mang tính thú.
Muốn làm người đúng nghĩa con người (tức là hết hẳn bản chất thú) Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ân tình chỉ cho con người những tiêu chuẩn để thực sự làm người đó là 5 giới và 10 điều thiện.
Mười điều thiện là mười hành động gốc xuất phát từ ba nơi thân, khẩu, ý trên cơ thể con người. Đấy chính là nơi sinh ra toàn bộ mọi hành vi đạo đức và vô đạo đức. Con người biết sống sinh thiện diệt ác, biết lấy phương châm không làm khổ mình khổ người soi vào mọi hoạt động thì mọi hành vi đêu trở nên đạo đức nhân bản – nhân quả.
Đó là con đường dẫn người ta vượt lên, từ bỏ, dũ sạch bản chất thú và trở thành cao thượng. Ở đây con người sống yêu thương, chia sẻ đùm bọc, xót thương đồng loại, biết xấu hổ, biết sửa mình, sống có đạo lý, ngày càng triển khai trí tuệ thông minh, làm chủ bản thân vượt ra ngoài sự chi phối của luật nhân quả, làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Đây đó, có nơi có lúc người ta cho rằng cuộc sống vật chất phồn vinh thì mới có hạnh phúc. Quan niệm đó là sai. Không ít người đã lênh đênh vượt biển ra đi một sống hai chết để mong những ngày giàu sang, đầy đủ tiện nghi nhưng rồi chính họ đến lúc có dư vật chất mới thấm thía hơn ai hết nỗi cô đơn, lạc lỏng, buồn thương khao khát nghĩa tình. Đến lúc họ hiểu thấu những giá trị tinh thần : Tình yêu quê hương tổ quốc, mảnh đất chôn rau cắt rún, mảnh đất ông cha yên nghỉ, phong tục tập quán truyền thống, lịch sử thấm đượm máu và nước mắt dân tộc.
Vật chất và tinh thần là hai mặt của một chủ thể thống nhất, chỉ một mặt phát triển không khác gì người chỉ mạnh một chân một chân khuyết tật.
Đời sống đạo đức và đời sống vật chất phải phát triển song song và tương ứng. Nếu không vậy, chúng ngược chiều nhau là một thảm hoạ.
Gia đình nghèo khó mới biết con cái có hoặc không hiếu thảo.
Anh chị em trong một nhà có bế xách nhau đến vẹo sườn, chia nhau củ sắn củ khoai, tấm áo mặc chung lớn lên mới thấm nặng tình thương. Sống trong cảnh giàu có nhung lụa của ăn không hết mọi cái có người phục vụ, lớn lên nghĩa tình không thể sâu nặng, ai cũng chỉ quen lo cho chính mình.
Trong chiến tranh, mọi người lính tài sản đều như nhau, chỉ một chiếc ba lô, hai bộ quần áo, không dùng tiền, trước mặt một con đường sống chết thất thường nên con người gắng bó nhau như ruột thịt. Hoà bình rồi, người giàu lên, kẻ nghèo khổ. Người quan tước, kẻ cùng đinh nên lại ngăn cách lạnh lùng tủi hận, tình cảm tốt đẹp tắt lịm lần.
Trong xã hội phong kiến, một khi các triều đại suy vi, dân tình đói khổ, con người tự liên kết lại với nhau chống áp bức bóc lột - Họ sống chết quên mình vì nhau. Bao cử chỉ hành động đều sống cao thượng nảy sinh từ nguy nan, gian khó. Tình cảm, đạo đức con người trở nên cao đẹp, trong sáng. Họ luôn là một khối thống nhất trong tư tưởng hành động. Nhưng khi cuộc sống đã an bình, xã hội phân hoá thành giàu nghèo, đẳng cấp, trăm ngàn mâu thuẫn xung đột lại nẩy sinh chia rẽ.
Cái bệnh muôn thuở của con người là tham muốn. Tham muốn tột độ và cũng không bao giờ thoả mãn tột độ. Có nhà tranh người ta ước nhà ngói. Có nhà ngói người ta ước nhà tầng. Có nhà tầng lại muốn nhà năm mười tầng – Khi đi xe đạp thì ước xe máy. Có xe máy ước có ô tô. Có ô tô rồi, khốn khổ với chuyện mốt này mốt nọ, cuối cùng chẳng có mốt nào thoả mãn.
Với bản chất tham dục, chạy theo dục sống theo lối sống vật chất nên cuộc sống hôm nay ở các nươc phát triển bãi rác trở thành những núi rác. Những xe cộ máy móc thậm chí còn mới tinh, sơn, nhãn còn bong nhoáng đã được thải, bởi thị trường loại mới vừa ra đời. Có thể đồ bãi rác được chuyển đến những nước nghèo, anh này nhả bã lại có anh khác hứng…
Khi con người đã vào vòng xoáy hưởng thụ cá nhân, đắm trong danh lợi tiền tài thì đạo đức ngày càng mờ nhạt, mất dần và cái còn lại sẽ là vô đạo đức.
Tư tưởng chiếm đoạt mạnh gấp trăm ngàn lần đức hy sinh cống hiến hoặc bổn phận.
Khi ấy con người bước đến chặng huỷ diệt nhanh như hòn đá từ đỉnh núi bắt đầu lăn.
Không thể có chuyện đời sống vật chất càng phồn thịnh thì con người càng hạnh phúc. Tất nhiên hạnh phúc không đồng nghĩa với năng xuất lao động thấp, nghèo đói xác xơ. Nhưng một điều hiển nhiên – giàu có phồn vinh về vật chất mà không có đạo đức là sự phồn vinh kề bên vực thẳm. Thảm hoạ diệt chủng từ hạt nhân nguyên tử là từ gốc tham, sân, si như thuốc độc cực mạnh đã nằm trong túi áo con người. Nhưng nếu mức sống còn thấp, còn chậm tiến mà con người biết sống đạo đức, đề cao đạo đức thì cuộc sống vẫn an vui, hạnh phúc, thanh thản, tốt lành và dứt khoát không có hận thù, chia ly, máu đổ...
Thế nên đạo đức luôn phải được đặt lên hàng đầu cuộc sống xã hội và mỗi cá nhân. Từ đó nó toả sáng điều chỉnh mọi hành vi và dẫn dắt con người trên đường tiến hoá. Nhưng đó phải là nền đạo đức nhân bản – nhân quả chứ không thể là thứ đạo đức chung chung hoặc đạo đức phục vụ cho một giai cấp hay một tập đoàn thống trị nào.
Đạo đức nhân bản – nhân quả mới chính là chiếc la bàn cho con người trong đêm tối giữa cánh rừng mịt mùng vô minh.