Không chỉ tinh tế khi tả thức ăn
mà trong Hà Nội băm sáu phố phường(in trên Ngày nay từ 1940), Thạch Lam còn
khéo ghi nhận cái thói quen dễ dãi cẩu thả của người mình trong cách làm thức
ăn. Như trong câu chuyện về mấy bát mằn thắn. Trong khi bát mì của mấy chú
khách(tức đám Hoa kiều) đầy đặn thì người mình chỉ giỏi giả lễ bà chúa mường.
Bát mằn thắn của các ông chủ người Việt có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy
miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt, song mằn thắn bột thì thô, nhân
là một tí thịt bạc nhạc, nước rất nhiều nhưng nhạt.
Cho đến những năm cuối thế kỷ XX
đầu XXI này nhiều người đi nước ngoài còn chứng kiến kiểu làm ăn tương tự.
Như ở Paris , một nhà báo kể với tôi là chả có cửa
hàng ăn nào của người Việt đậu được lâu. Lúc mới khai trương cũng rôm rả. Nhưng
chỉ một hai năm là chất lượng kém hẳn đi và người ăn bỏ hết sang các hiệu khác.
Người ta bắt gặp ở đây một quan
niệm sống tầm thường dễ dãi, không bao giờ duy trì được sự liên tục có trước có
sau tức không đạt tới một trình độ chuyên nghiệp ổn định.
Một thói xấu khác của các nhà
hàng buôn bán người mình được Thạch Lam ghi nhận là thói dễ thỏa mãn. Ông lấy
ví dụ như mấy hiệu kẹo lạc kẹo vừng Cự Hương, Ngọc Anh. Lúc đầu còn chịu khó
làm thật ngon để chiều khách, sau ngủ yên trên danh vọng.
Hình như dân mình động giàu là ra
mặt vênh váo và bắt đầu làm ăn chểnh mảng - tác giả Gió đầu mùa khái quát. Và
ông hồn nhiên tự hỏi “Ồ, sao sự cố gắng ở nước này không được lâu bền nhỉ!”.
Người xưa có câu “Nhân bần trí đoản”, với
nghĩa người nghèo hèn,kẻ hiểu biết nông cạn thì không còn đáng để ai đếm xỉa
tới nữa.
Không đâu thấy rõ sự ngắn hơi và
dễ thỏa mãn như trong hoạt động của người làm nghệ thuật ở Việt Nam .
Làng tranh Đông Hồ quê gốc tôi có nhiều nghệ nhân có tác phẩm để đời. Nhưng tên
tuổi tác giả những bức tranh đó thì không ai biết. Đại khái đó là những ông thợ
tài hoa nhưng cẩu thả, lúc vợ ốm con đau hoặc thua bạc cần tiền thì vẽ vội mấy
bức mang bán cho các nhà giàu trong làng, và không có ý niệm gì về bản quyền
trên tranh. Cũng giống như các cửa hàng kẹo bánh của Thach Lam “không biết rằng
hàng của mình ngon hơn hàng khác “, các nghệ nhân đó cũng không thể nghĩ rằng
lẽ ra tên tuổi mình có thể còn mãi với lịch sử mỹ thuật. Chính họ tước đi khả
năng đó ở họ.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa
thời cổ văn xuôi Trung quốc chỉ có biền văn, chưa có tự sự.
Tự sự Trung quốc là học được từ
Ấn Độ qua du nhập sách Phật.
Nhưng khi đã nắm được rồi thì
người Trung Hoa đưa nghệ thuật này lên đến đỉnh điểm. Những bộ tiểu thuyết như
Hồng lâu mộng Kim bình mai có độ dài và trình độ kết cấu không thua kém gì
những thiên tự sự đồ sộ nhất của phương Tây.
Trong khi đó các tác phẩm tự sự
của người Việt chỉ theo dõi con người trong những khoảng thời gian ngắn. Không
tìm đâu ra loại tác phẩm có khả năng bao quát cuộc sống nhân vật trong thời
gian dài, dựng lại lịch sử cả mấy thế hệ như truyện Tàu.
Các cuốn tiểu thuyết hiện đại
thường kém về kết cấu toàn cục. Cố lắm chỉ được vài chương đầu. Càng về cuối
càng hỏng.
Manh mún nhỏ lẻ không chỉ là cách
làm ruộng đi buôn mà cũng là cách người Việt làm nghệ thuật. Chúng ta chỉ có
những tác phẩm nhỏ nhỏ xinh xinh, chùa Một Cột chẳng hạn chỉ tồn tại như một ý
niệm hơn là một công trình thực tế.
Nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm
Thượng có lần bảo với tôi: Tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay của chùa Bút Tháp
đẹp thật, nhưng lưng tượng thì chỉ được làm dối dá cốt cho xong chuyện.
Trong truyện ngắn Đất xóm chùa(in
trên Văn Nghệ số 42 năm 1993), nhà văn Đoàn Lê để cho một nhân vật phát biểu
tạt ngang: “Khốn nạn, cái vạt đất tí hin bị bỏ quên sau mấy lũy tre, mơ ước hào
hoa nhất chỉ là nồi cơm Thạch Sanh cả làng ăn không hết, chuyện tinh tướng bốc
giời nhất cũng chỉ chuyện củ khoai to bằng cái đình …..Cứ ra cái điều !”
Theo TT&VH 10-7-07
Một số trích đoạn từ các phần
Người xưa cảnh tỉnh, có liên quan tới chủ đề Cạn nghĩ ngắn hơi, dễ thỏa mãn
Những ham muốn tầm thường
Đau đớn thay cho những người nước
ta, trước mắt không bao giờ thấy lợi chung, trong óc không bao giờ có tư tưởng
cao thượng, túi những chất đầy tham mà tham không mực, chẳng qua là nghiện hơi
đồng(1); hố vẫn lấp đầy dục(2) mà dục kỳ cùng, chẳng qua là hầu xác thịt; kết
quả đến nỗi hy sinh hết lương tâm thiện lý, mà làm nô lệ cho những món tư tình(...)
Vợ vì sẵn của mà hoá vợ hèn, con vì sẵn của mà hoá nên con dại, tiền bạc hoá ra
của phá nhà, ruộng vườn hoá ra mồ chôn sống...
(1) lấy ý từ câu Kiều: “máu tham
hễ thấy hơi đồng thì mê “
(2) lòng ham muốn
Phan Bội Châu
Cao đẳng quốc dân, 1928
Bỏ cũ theo mới một cách nông nổi
Những người theo Nho học xưa nay
thường hay trọng cái hình thức bề ngoài thái quá để đến nỗi tinh thần sai lầm
đi rất nhiều. Người mình lại cứ quen một mặt thuận thụ(1) theo cái khuôn nhất
định của tiền nhân để lại, việc phải trái hay dở thế nào cũng chỉ ở trong cái
khuôn đó chứ không chệch ra ngoài được, sự phê bình phán đoán càng ngày càng
hẹp lại, không biết còn có tư tưởng nào nữa.
Đến nay thời cục đã biến đổi,
khoa cử bỏ đi rồi, sự học cũ không phải là cái cầu ở con đường sĩ hoạn nữa, thì
Kinh Truyện xếp lại một chỗ mà đạo thánh hiền cũng chẳng ai nhắc đến.
Sự bỏ cũ theo mới của ta hiện
thời bây giờ không phải là không cần cấp, nhưng vì người mình nông nổi không
suy nghĩ cho chín, chưa gì đã đem phá hoại đi, thành thử cái xấu cái dở của
mình thì vị tất đã bỏ được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh tuý đã giữ cho xã
hội ta được bền vững mấy nghìn năm.
Cái tình trạng nước ta hôm nay là
thế, khác nào như chiếc thuyền đi ra biển, không biết phương hướng nào mà đi
cho phải.
(1) xuôi theo, tự nguyện chấp
nhận
Trần Trọng Kim
Nho giáo, 1930
Dễ dãi thô thiển thế nào cũng xong
Người An Nam vốn có cái thiên
tính dễ đồng hóa(1), dễ am hiểu, dễ thu nạp lấy những cái khác lạ với mình, dễ
đem những điều hay điều dở của người mà hóa(2) làm của mình; nhưng cái tài đồng
hóa đó thường thường chỉ là cái khóe tinh(3), biết xem xét và bắt chước của
người, chỉ phảng phất ở bề ngoài chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để(4)
chỗ tinh túy.
Tỷ như thợ An Nam thì phóng chép
tài lắm; những hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu cách lạ đến đâu, họ cũng bắt
chước được như hệt cả.
Học trò ta học rất mau, nhớ cũng
rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu thấu đã hóa được những cái người ta dạy mình.
Một người trí não khô cạn, hay là
vì không được tiêm nhiễm những cái tinh hoa của nòi giống mà thành ra khô cạn
đi – một người như thế không thể không thể nào hiểu thấu được cái tinh thần của
Tây phương. Có đồng hóa chỉ đồng hóa được cái bề ngoài, chỉ bắt chước được cái
hình thức.
Cái cách đồng hóa dễ dàng thô
thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt, mà có thể cho là cái tính xấu
được. Chưa chắc cái học tiếp thu được dễ dàng như vậy đã làm cho óc được khôn
ra, người được chín ra chút nào.
Đồng hóa một cách cấp tốc, một
cách vô độ -- há chẳng phải là hại hơn lợi ?
(1) tiếp nhận
(2) biến cải
(3) ngón nghề, mánh lới
(4) gốc rễ, cơ bản
Phạm Quỳnh
Giải nghĩa đồng hóa, Nam phong, 1931
An nhàn lẫn với đê hèn nhục nhã
Tinh thần thượng võ tuyệt nhiên
không thấy trong lịch sử ta. Cái ước muốn cao nhất của người mình là sống một
cuộc đời an nhàn, bình tĩnh, hưởng thú vị gió mát trăng thanh, cho dầu một đôi
khi các thú vị đó không khỏi lẫn đê hèn, nhục nhã …
Các văn sĩ ta xưa nay ngâm vịnh
gì cũng ít khi ra khỏi những cảm giác những tình ý nhẹ nhàng, yếu đuối. Văn
chương ta có thể nói là một thứ văn chương đàn bà.
Các nhân vật trong tiểu thuyết
trong thi ca ngày nay phần nhiều đều có vẻ ngây ngô. Những cử chỉ những ái tình
của họ cũng có vẻ ngây ngô.
Cái ưa thích này đã tỏ ra rằng
dân tộc ta là một dân tộc già.
Hoài Thanh
Cần phải có một thứ văn chương mạnh mẽ hơn, Tiểu thuyết thứ bảy, 1935
Tình cảm nhợt nhạt
Trong quyển Le Francais par les textes(1),
tôi đọc được một đoạn ký ức của văn sĩ Nga L. Tolstoi, nhắc lại cái tình mẹ đối
với con và con đối với mẹ trong hồi còn thơ ấu. Một đoạn văn bình dị mà cảm
động vô cùng.
Rồi tôi cố tìm lại trong văn thơ
ta một đoạn tương tự như vậy. Thì ra cái xứ vẫn nổi tiếng là hết sức tôn sùng
đạo hiếu này lại không hề có một tác phẩm văn chương ca tụng tình cha con, mẹ
con.
Những bài ca Nhị thập tứ hiếu chỉ
là những bài ca khuyến hiếu(2).Cho đến quyển Kim Vân Kiều cũng chỉ là một bài
ca khuyến hiếu. Ở trong ấy chỉ có những điều bắt buộc của lễ nghi của luân lý
mà không sao tìm thấy cái tình đối với song thân hồn nhiên, chất phác mà trời
đã phú cho con người.
Vì sao lại có sự lạ lùng vậy? Hay
là cái tình cha con, mẹ con ở xứ mình quá ư bạc nhược, nên người ta phải mượn
luân lý để ràng buộc lại?!
(1) Tiếng Pháp qua các bài khóa
(2) Khuyên người ta phải có hiếu
Hoài Thanh
Về văn học xứ ta cũng còn là một đất hoang Sông Hương, 1938
Nguồn: Blog
Vương Trí Nhàn