Đừng đi trước tôi; tôi có thể sẽ không theo. Đừng đi sau tôi; tôi có thể sẽ không dẫn lối. Hãy đi bên cạnh và trở thành bạn của tôi.
Don't walk in front of me; I may not follow. Don't walk behind me; I may not lead. Just walk beside me and be my friend.
Mục đích của người viết văn là giữ cho nền văn minh không tự hủy diệt.
The purpose of a writer is to keep civilization from destroying itself.
Tôi tiếp tục tin rằng thế giới này không có ý nghĩa tối hậu nào. Nhưng tôi biết rằng có điều gì đó có ý nghĩa, và đó là con người, bởi anh ta là sinh vật duy nhất khăng khăng đi tìm ý nghĩa.
I continue to believe that this world has no ultimate meaning. But I know that something in it has a meaning and that is man, because he is the only creature to insist on having one.
Rất bình thường khi cho đi một phần nhỏ cuộc đời để không đánh mất nó toàn bộ.
It is normal to give away a little of one's life in order not to lose it all.
Tôi chỉ còn lại một ít thời gian, và tôi không muốn lãng phí nó cho Chúa.
I had only a little time left and I didn't want to waste it on God.
Điều vô lý là khái niệm thiết yếu và là sự thật đầu tiên.
The absurd is the essential concept and the first truth.
Chúng ta tiếp tục hình thành tính cách trong cả cuộc đời. Nếu chúng ta hoàn toàn hiểu rõ bản thân mình, chúng ta nên chết đi cho rồi.
We continue to shape our personality all our life. If we knew ourselves perfectly, we should die.
Không có văn hóa và thứ tự do tương đối nó gợi lên, xã hội ngay cả khi hoàn hảo cũng chỉ là rừng rậm. Vì vậy mọi sáng tạo đích thực đều là món quà gửi tới tương lai.
Without culture, and the relative freedom it implies, society, even when perfect, is but a jungle. This is why any authentic creation is a gift to the future.
Theo đuổi điều gì đúng không phải là theo đuổi điều gì đáng ao ước.
Seeking what is true is not seeking what is desirable.
Chỉ có một vấn đề triết học thực sự nghiêm túc và đó là tự sát. Phán xét liệu cuộc đời có đáng sống hay không cũng giống như trả lời câu hỏi cơ bản của triết học. Tất cả những điều còn lại - thế giới có ba chiều hay không, trí óc có chín hay mười hai hạng mục - đều đi sau đó. Đó là những trò chơi; người ta đầu tiên phải trả lời đã.
There is but one truly serious philosophical problem and that is suicide. Judging whether life is or is not worth living amounts to answering the fundamental question of philosophy. All the rest — whether or not the world has three dimensions, whether the mind has nine or twelve categories — comes afterwards. These are games; one must first answer.
Điều quan trọng nhất bạn làm khi sống hàng ngày là quyết định không tự giết bản thân mình.
The most important thing you do everyday you live is deciding not to kill yourself.
Người phản kháng là gì? Người dám nói không.
What is a rebel? A man who says no.
Văn hóa: tiếng kêu của con người khi đối diện với số phận.
Culture: the cry of men in face of their destiny.
Khi không có hy vọng, bổn phận của chúng ta là sáng tạo ra nó.
Where there is no hope, it is incumbent on us to invent it.
Luôn luôn có lúc con người mệt mỏi bởi công việc, sự cống hiến cho bổn phận, và tất cả những gì anh ta muốn là gương mặt mình yêu, sự ấm áp và điều kỳ diệu của một trái tim yêu thương.
Always there comes an hour when one is weary of one's work and devotion to duty, and all one craves for is a loved face, the warmth and wonder of a loving heart.
Tôi chỉ biết một nghĩa vụ, và đó là yêu thương.
I know of only one duty, and that is to love.
Sự chính trực không cần điều luật.
Integrity has no need of rules.
Sự thật, giống như ánh sáng, làm người ta chói mắt. Sự giả dối thì ngược lại, là ánh chiều hôm tưoi đẹp bao trùm lên mọi vật.
Truth, like light, blinds. Falsehood, on the contrary, is a beautiful twilight that enhances every object.
Nhưng cuối cùng, người ta cần nhiều can đảm để sống hơn là để tự sát.
But in the end one needs more courage to live than to kill himself.
Khi ba mươi tuổi, người ta nên biết rõ mình như trong lòng bàn tay, biết rõ con số cụ thể của những khiếm khuyết và phẩm chất của mình, biết mình có thể đi xa bao nhiêu, đoán trước những thất bại - là chính bản thân mình. Và trên hết, chấp nhận những điều đó.
At 30 a man should know himself like the palm of his hand, know the exact number of his defects and qualities, know how far he can go, foretell his failures - be what he is. And, above all, accept these things.
Mỗi lần tôi nghe một bài phát biểu chính trị hay đọc từ các lãnh đạo của chúng ta, tôi cảm thấy kinh khủng vì mình đã hàng năm trời không nghe được thứ gì nghe giống con người. Vẫn luôn là cũng những từ ngữ đó nói cùng những những lời dối trá đó. Và sự thật rằng người ta chấp nhận điều này, rằng sự giận dữ của nhân dân không hề hủy diệt những thằng hề rỗng tuếch đó, là bằng chứng khiến tôi thấy con người không coi trọng cách họ được cai trị; rằng họ đánh cuộc - phải, đánh cuộc - với một phần trọn vẹn của cuộc đời và thứ họ gọi là 'lợi ích sống còn'.
Every time I hear a political speech or I read those of our leaders, I am horrified at having, for years, heard nothing which sounded human. It is always the same words telling the same lies. And the fact that men accept this, that the people’s anger has not destroyed these hollow clowns, strikes me as proof that men attribute no importance to the way they are governed; that they gamble – yes, gamble – with a whole part of their life and their so called 'vital interests'.
Những người hy sinh cho lý tưởng, anh bạn, phải chọn giữa bị lãng quên, bị nhạo báng hoặc bị lợi dụng. Còn để được hiểu ư - không bao giờ.
Martyrs, my friend, have to choose between being forgotten, mocked or used. As for being understood - never.
Tôi thà sống cả đời tin có thần linh và rồi chết mà phát hiện hoàn toàn không có, còn hơn sống cả đời không tin tưởng và rồi chết mà phát hiện có thần linh.
I would rather live my life as if there is a god and die to find out there isn't, than live my life as if there isn't and die to find out there is.
Tôi không tin vào Chúa và tôi không phải người vô thần.
I do not believe in God and I am not an atheist.
Cuộc sống có thể huy hoàng và choáng ngợp - đó là bi kịch. Không có cái đẹp, tình yêu hay nguy hiểm, sống hẳn sẽ thật dễ dàng.
Life can be magnificent and overwhelming - that is the whole tragedy. Without beauty, love, or danger it would almost be easy to live.
Con người phải sống và sáng tạo. Sống cho đến mức rơi lệ.
Men must live and create. Live to the point of tears.
Xã hội dựa vào sản xuất chỉ năng suất chứ không sáng tạo.
The society based on production is only productive, not creative.
Bạn được tha thứ cho hạnh phúc và thành công của mình chỉ khi bạn sẵn sàng hào phóng chia sẻ chúng.
You are forgiven for your happiness and your successes only if you generously consent to share them.
Người không có đạo đức giống như con thú hoang bị thả rông vào thế giới.
A man without ethics is a wild beast loosed upon this world.
Tự do không là gì khác ngoài cơ hội trở nên tốt đẹp hơn.
Freedom is nothing but a chance to be better.
Tôi đã thấy đủ những người chết vì một lý tưởng. Tôi không tin vào chủ nghĩa anh hùng; tôi biết nó dễ dàng và tôi đã học được rằng nó có thể đẫm máu. Điều tôi mong muốn là sống và chết cho điều tôi yêu.
I've seen of enough of people who die for an idea. I don't believe in heroism; I know it's easy and I've learned it can be murderous. What interests me is living and dying for what one loves.
Vài người nói trong lúc ngủ. Giảng viên nói trong lúc người khác ngủ.
Some people talk in their sleep. Lecturers talk while other people sleep.
Thứ được coi là lý do để sống cũng là lý do tuyệt vời để chết.
What is called a reason for living is also an excellent reason for dying.
Tôi vẫn chưa hiểu tại sao ngày có thể vừa dài vừa ngắn: dài để sống hết quãng đời, có thể, nhưng lê thê tới nỗi chúng hòa nhập vào nhau. Chúng không còn tên nữa. Chỉ có 'ngày hôm qua' và 'ngày mai' còn ý nghĩa với tôi.
I hadn't understood how days could be both long and short at the same time: long to live through, maybe, but so drawn out that they ended up flowing into one another. They lost their names. Only 'yesterday' and 'tomorrow' still had any meaning for me.
Để hạnh phúc, chúng ta không được để tâm quá nhiều đến người khác.
To be happy, we must not be too concerned with others.
Cái ác trên thế gian hầu như thường đến từ sự ngu muội, và ý tốt cũng có thể gây hại nhiều như ác ý nếu nó thiếu đi sự thấu hiểu.
The evil that is in the world almost always comes of ignorance, and good intentions may do as much harm as malevolence if they lack understanding.
Không có lao động, mọi cuộc sống đều trở nên mục ruỗng. Nhưng khi lao động không hồn, cuộc sống ngột ngạt và chết.
Without work, all life goes rotten. But when work is soulless, life stifles and dies.
Thế giới không có tình yêu là thế giới đã chết.
A loveless world is a dead world.
Sự lười nhác là chí tử đối với những kẻ tầm thường.
Idleness is fatal only to the mediocre.
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu bạn tiếp tục tìm kiếm thành phần của hạnh phúc. Bạn sẽ không bao giờ sống nếu bạn vẫn tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời.
You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. You will never live if you are looking for the meaning of life.
Albert Camus
(7/11/1913 – 4/1/1960)
Albert Camus (7 tháng 11 năm 1913 – 4 tháng 1 năm 1960) là một nhà văn, triết gia, nhà báo người Pháp nổi tiếng.
Cùng với Jean-Paul Sartre, Albert Camus là đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh. Ông là tác giả của các tiểu thuyết nổi tiếng L'Étranger (Người xa lạ), La Peste (Dịch hạch). Albert Camus được trao tặng Giải Nobel Văn học năm 1957 vì các sáng tác văn học của ông đã "đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta".
Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913 tại Mondovi, một làng ở Constantinois, gần Bône, Algérie. Cha ông, Lucien Camus, một công nhân sản xuất rượu nho vùng Mondovi cho một thương gia thành phố Alger. Khi Thế chiến thứ nhất nổ ra, Lucien Camus bị động viên vào tháng 9 năm 1914, bị thương trong trận chiến Marne và chết tại bệnh viện quân y Saint-Brieuc ngày 17 tháng 10 năm 1914. Về cha mình, Abert chỉ biết qua một bức ảnh duy nhất còn để lại.
Gia đình của Abert sống ở thủ đô Alger và trong thời gian học tập ở đây, được sự động viên của giáo sư, triết gia Jean Grenier, ông bắt đầu tìm hiểu Friedrich Nietzsche. Albert Camus cầm bút từ rất sớm, những bài viết đầu tiên của ông xuất hiện trên tạp trí Sud vào năm 1932. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông học triết học ở Đại học Alger. Albert định sẽ học tiếp cao học, nhưng bệnh lao phổi đã cản trở ý định của ông.
Năm 1935, Albert bắt đầu viết tác phẩm L'Envers et l'Endroit (Mặt trái và mặt phải) và xuất bản hai năm sau đó. Tại Alger, ông thành lập nhóm "Théâtre du Travail" và năm 1937 đổi thành "Théâtre de l'Équipe". Thời gian đó, Albert rời bỏ đảng cộng sản mà ông là đảng viên từ năm 1934. Năm 1938, ông viết quyển Noces (Đám cưới), tuy ca ngợi vẻ đẹp rực rở của mặt trời quê hương nhưng ông đã cho thấy sự bi quan sâu sắc về cuộc sống.
Tiếp theo, ông làm việc cho tờ Front populaire của Pascal Pia, cuộc điều tra Misère de la Kabylie của ông đã gây được tiếng vang lớn. Năm 1940, chính phủ Algérie ra lệnh đóng cửa tờ báo và cũng với sự can thiệp của chính phủ, Abert Camus đã không thể tìm được việc làm ở Alger.
Albert đến Paris làm biên tập cho tờ Paris-Soir. Năm 1942, ông phát hành cuốn tiểu thuyết L'Étranger (Người xa lạ) và tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe), trong đó ông đã trình bày những tư tưởng triết học của mình. Sisyphe là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt phải lăn một hòn đá lớn lên núi dốc, khi đến đỉnh hòn đá lại rơi trở xuống chân dốc, cứ thế Sisyphe tiếp tục lăn lên rồi rơi xuống theo một chu kỳ vĩnh cữu. Theo hệ sự phân loại của riêng Albert, các tác phẩm đó thuộc "thời kỳ phi lý" (cycle de l'absurde), cùng với các vở kịch Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) và Caligula (1945). Năm 1943, ông làm việc cho nhà xuất bản Gallimard rồi làm chủ biên tập báo Combat, cũng trong năm này ông gặp và làm quen với Jean-Paul Sartre. Những tác phẩm tiếp theo của Camus thuộc "thời kỳ nổi loạn" (cycle de la révolte), trong đó nổi tiếng hơn cả phải kể đến La Peste (Dịch hạch, 1947), kế đến L'État de siège (1948), Les Justes (1949) và L'Homme révolté (Người nổi loạn, 1951). Trong quyển tiểu luận triết học Người nổi loạn, ông đã trình bày tất cả các hình thức nổi loạn (siêu hình, chính trị và nghệ thuật...) qua mọi thời đại. Ông miêu tả con người cảm nhận sâu sắc sự phi lý của cuộc sống, luôn muốn nổi dậy, chống lại nỗi khốn khổ của kiếp người, nhưng cuối cùng vẫn không có lối thoát, mọi cố gắng đều hoàn toàn vô ích.
Tình bạn giữa Albert Camus và Jean-Paul Sartre rạn nứt vào năm 1952, sau khi trên tạp chí Les Temps modernes của Sartre, Henri Jeanson đã chê trách sự nổi loạn của Camus là "có suy tính". Năm 1956, tại Alger, Albert công bố "Appel pour la trêve civile". Cũng trong năm đó, cuốn La Chute, tác phẩm quan trọng cuối cùng của Albert Camus được xuất bản.
Ngày 4 tháng 1 năm 1960, tại Petit-Villeblevin vùng Yonne, Albert Camus mất trong một tai nạn giao thông. Trên chiếc xe Facel Véga khi đó còn có một người bạn của ông Michel Gallimard và người cháu Gaston.
Albert Camus được chôn cất ở Lourmarin, vùng Vaucluse, nơi ông đã mua một căn nhà trước đó.
Nguồn: tudiendanhngon.vn