Athur Schopenhauer (1788-1860) được biết đến như một nhà triết học, nhà giáo dục lỗi lạc người Đức. Khác với những nhà triết học đưa ra hàng loạt các khái niệm mô phạm và các luân lý, Schopenhauer gắn liền giáo dục với phần bản năng của con người. Quan điểm của ông có thể gói gọn trong mấy chữ “thuận theo lẽ tự nhiên” trong Đạo giáo Trung Hoa.
Tác phẩm lớn nhất của ông là Thế giới là ý chí và biểu tượng. Ông nhấn mạnh về ý muốn của con người. Những phân tích của ông về ý muốn con người đã dẫn ông đến với kết luận rằng những ham muốn về cảm xúc, thể xác hay thậm chí là tính dục của con người không bao giờ có thể lấp đầy. Những phân tích siêu hình về ý chí, quan điểm về động lực sống của loài người và cách viết châm ngôn của Schopenhauer đã có những tác động lớn tới những học giả, nghệ sĩ lớn sau này như Friedrich Nietzsche, Richard Wagner, Ludwig Wittgenstein, Erwin Schrödinger, Albert Einstein, Sigmund Freud, Otto Rank, Carl Gustav Jung, Leo Tolstoy, Jorge Luis Borges…
Chân dung Schopenhauer
Sự anh minh đi đôi với tài hùng biện, tính bi quan gắn liền với một tâm trạng lo âu… Đó chính là những đặc tính điển hình của Arthur Schopenhauer, ông như một ngọn núi cô độc lừng lẫy đứng giữa cánh đồng bất tận của làng triết học siêu hình Đức. Các tác phẩm của ông, đặc biệt là Thế giới như là ý chí và biểu tượng, đã được chú ý đến ngay khi ông còn sống, nhưng chỉ khi ông đã qua đời, người ta mới dần dà đánh giá được đúng hơn những gì mà ông đã cống hiến cho nhân loại. Những chỉ trích của Schopenhauer về quan điểm của Kant, các phương pháp sáng tạo liên quan đến những vấn đề kinh nghiệm của loài người và quan điểm của ông về việc cho rằng tầm hiểu biết của con người là hạn chế được xem là những thành tựu lớn nhất trong sự nghiệp của Schopenhauer… Năm 1839, Schopenhauer được nhận giải thưởng của Hội Khoa học Hoàng gia Na Uy nhờ công trình Về tự do của ý chí con người. Năm 1843, ông cho tái bản Thế giới là ý chí và biểu tượng và còn viết thêm tập hai cho tác phẩm này. Schopenhauer mất tại Frankfurt trên sông Main ngày 21/9/1860. Trên mộ chí chỉ ghi độc nhất tên họ của ông “Arthur Schopenhauer”…
Tính cách và cuộc đời Schopenhauer cũng thú vị như học thuyết của ông. Ông là một kẻ lập dị, một dòng sông chảy ngược dòng với số đông các nhà triết học và tư tưởng cùng thời. Ông không bao giờ cho phép thợ hớt tóc cạo râu cho ông, vì sợ người ta có thể cắt cổ mình. Trong phòng ngủ, ông luôn có một khẩu súng nạp đạn sẵn, vì sợ người đời có thể bất ngờ ám hại ông. Một nhà thợ may tốt bụng nhưng lắm điều gây phiền hà cho ông đã bị ông xô ngã xuống nền nhà. Hậu quả là ông phải chịu mọi phí tổn nuôi dường người đàn bà tật nguyền này suốt đời. Sau nhiều lần cãi nhau quyết liệt, mẹ ông đã từ ông, vì không thể chấp nhận một đứa con “lúc nào cũng ca thán về trần gian ngu xuẩn và sự khốn cùng của kiếp người”.
Trong lịch sử triết học thế giới, ít có triết gia nào lại phê phán đồng nghiệp như Schopenhauer. Ông phỉ báng Hegen, coi học thuyết của Hegen là “một thứ triết học vô nghĩa tuyệt đối”, là “trò tào lao của kẻ sống trong nhà thương điên”. Cuộc sống là sự lường gạt triền miên. Ý muốn của con người thì vô hạn, còn sự thỏa mãn lại hữu hạn. Con người không bao giờ có hạnh phúc và bình yên. Một ước vọng được thỏa mãn chính là cái nôi nảy sinh ra một ước vọng mới. Cái hiện thực duy nhất trong đời sống chính là sự đau khổ. Hạnh phúc và niềm hoan lạc chỉ là âm bản thiếu vắng sự khổ đau trong chốc lát. Cuộc đời thực sự là một “địa ngục mà trong đó con người vừa là những linh hồn bị đầy đọa, vừa là những ác quỷ”.
Để minh chứng cho quan niệm của mình rằng sự sống chính là sự khổ đau và cuộc đời là địa ngục, Schopenhauer đã đưa ra vô vàn thí dụ trong các nhà thương, các phòng mổ, trại giam, tòa án, trại nô lệ, bãi chiến trường và khẳng định chính Dante đã lấy thế giới này làm nguyên mẫu để viết nên Địa ngục của ông. Và, cũng chính Dante đã thất bại khi viết niềm vui và cõi thiên đường, vì thế giới mà ta đương sống không hề có những điều như thế. Nó chỉ có đau khổ, không gì khác ngoài đau khổ. Vì thế, cuộc sống không có gì đáng sống. Sự sống chính là sự chết được phanh lại, cũng như sự đi chính là sự ngã được níu kẻo, kìm giữ.
Schopenhauer quan niệm rằng con người đang sống cũng chính là con người đương điên rồ hy vọng “khiêu vũ trong đôi tay thần chết”. Nguồn gốc của đau khổ có rất nhiều. Nhưng theo ông, nếu không kể đến sự khốn cùng của phần đông nhân loại, thì con người khổ đau có hai nguyên nhân chính: Một là, con người là một sinh vật có ham muốn vô hạn, không gì có thể làm đầy nơi thẳm sâu không đáy của trái tim con người; hai là, sự buồn chán luôn luôn là bạn đồng hành của hiện hữu. Sự buồn chán và những ước vọng không được thỏa mãn đã cố kết nên nỗi đau khổ triền miên của kiếp người. Suy cho cùng, số phận con người gắn chặt với cô đơn. Và mỗi người đều cô đơn với chính mình.
Schopenhauer cho rằng, cuộc sống giống như một quả lắc di động giữa sự thương cảm và nhàn cư. Triết gia vĩ đại này nhìn thấy một trong những phương thức giúp thoát khỏi đau đớn là khả năng thương cảm đối với những vật thể khác, không chỉ là con người mà cả cỏ cây hoa lá lẫn các loài muông thú.
Theo lời Schopenhauer, “sự tương cảm đối với động vật gắn bó chặt chẽ với lòng nhân hậu đến mức có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, con người không thể là tốt được nếu tàn nhẫn đối với động vật”.
Schopenhauer đã đứng ra chống lại các thí nghiệm với động vật ngay từ khi còn là sinh viên. Cũng chính khi đó đi đâu ông cũng dẫn theo một chú chó xù rất dễ thương. Chú chó xù cuối cùng mà Schopenhauer đã nuôi có tên là Bus. Triết gia người Đức đã yêu chú chó này đến mức trước khi chết, ông đã di chúc lại cho nó một khoản tiền khá lớn.
Schopenhauer cho rằng, chỉ có lòng thương cảm mới giúp con người chiến thắng được tính vị kỷ và chính lòng thương cảm mới là nền móng của mọi hệ thống luân lý. Nhìn từ góc độ này, tư tưởng của ông gần gũi với Phật giáo. Cũng vì lẽ đó mà Schopenhauer còn được gọi là “Đức Phật ở Frankfurt ”. Không ngẫu nhiên mà trong phòng làm việc của Schopenhauer, ngoài tượng của Kant, còn có cả một pho tượng Phật mạ vàng mang tới từ Tây Tạng. Cũng tại đó, Schopenhauer còn treo chân dung của Goethe, Descartes và Shakespeare và mười sáu bức tranh khắc gỗ các chú chó.
Tác phẩm chủ yếu này của Schopenhauer, người đã tự xưng là “hoàng đế của triết học” và tấn phong các học trò của mình là “các thánh tông đồ”, được viết ra khi ông mới 30 tuổi. Cuốn sách ra đời năm 1819, phần lớn bị bán làm giấy vụn. Tác giả và tác phẩm rơi tõm vào quên lãng, mặc dù ông đã khẳng định tác phẩm này “là một hệ thống triết học mới…. là một chuỗi tư tưởng gắn bó với nhau ở mức cao có nhất mà xưa nay chưa có đầu óc nào nghĩ ra”. Mãi hai mươi năm sau, khi làn sóng bi quan bao trùm khắp nước Đức sau thất bại của cuộc cách mạng năm 1848, người ta mới đổ xô nhau tìm đọc tác phẩm của ông, coi ông như một thần tượng của triết học và cuốn sách bi vứt đi kia bỗng trở nên sáng giá.
Thế giới là ý chí và biểu tượng
Có thể nói, toàn bộ tư tưởng triết học của Schopenhauer được gói gọn trong mệnh đề Thế giới là ý chí và biểu tượng. Tất cả những gì ông viết ra sau này chỉ là sự bình giải, bổ sung hoặc chi tiết hóa mệnh đề đó. Tùy theo giác độ nghiên cứu và quan sát, công trình nói trên của ông có thể được nhìn nhận là siêu hình học (quyển I, quyển II), là đạo đức học (quyển III), hoặc mỹ học (quyển IV).
Mở đầu tác phẩm, Schopenhauer viết: “Thế giới là sự tưởng tượng của tôi”. Với mệnh đề này, ông muốn khẳng định rằng toàn bộ hiện thực tồn tại trước hết là hiện thực thuần túy, do con người tưởng tượng ra. Những gì mà con người trực tiếp lĩnh hội được chưa phải là cái cách mà vật thể tự nó là như thế hoặc đúng như thế. Con người không biết gì về cái cây mà chỉ biết sự tưởng tượng của chính mình về cái cây, cũng như “không biết gì về mặt trời, về trái đất, mà chỉ là con mắt nhìn thấy mặt trời, bàn tay cảm nhận được trái đất”. Nói cách khác, vạn vật chỉ là những hiện tượng. Ở điểm này, Schopenhauer rất gần với Kant. Bản thân ông đã khẳng định triết học Kant là cửa ngõ để đi vào triết học của ông, ai muốn hiểu ông, người đó cần hiểu Platon, Kant và triết học Ấn Độ.
Tuy nhiên, nếu cách nhìn nhận hiện thực của Schopenhauer chỉ dừng lại ở luận đề “thế giới là sự tưởng tượng của tôi” thì ông cũng chỉ mới bước tới chủ nghĩa duy tâm thuần túy, còn thế giới thì chẳng là gì khác ngoài cái “bên ngoài”, ngoài sự tưởng tượng muôn thuở. Khi nghiên cứu sâu hơn về sự tưởng tượng ấy, Schopenhauer muốn tìm xem đằng sau những hiện tượng là cái gì? Điều này Kant đã nói tới khi ông đưa ra một khái niệm rất khó xác định, đó là “vật tự nó”. Schopenhauer đã đi xa hơn Kant khi ông tìm ra bản chất của cái gọi là “vật tự nó” ở Kant. Bản chất ấy chính là ý chí. Và luận đề thứ hai của Schopenhauer chính là: Thế giới là ý chí.
Nếu chỉ nghiên cứu từ bên ngoài thì không sao đến được với bản chất của vạn vật, cũng giống người đi quanh một ngôi nhà mà – không sao tìm được lối vào. Schopenhauer cho rằng con đường duy nhất để đi đến bản chất nằm trong chính chúng ta, trong từng cá thể, bởi vậy ông đã nghiên cứu cơ thể con người dưới góc độ triết học.
Theo ông, cơ thể con người là một biểu trưng của hai dạng thức: một là, nó là sự tưởng tượng đã được khách thể hóa, “có thể nhìn thấy được”, là khách thể trong mối quan hệ nhân quả của mọi hiện tượng; hai là, cơ thể con người còn là một cái gì đó tiềm ẩn sâu xa mà chỉ chính nó mới cảm nhận được. Sự tiềm ẩn sâu xa ấy chính là ý chí. Nghĩa là, cơ thể con người không những là một hiện tượng, một khách thể, mà là sự biểu đạt của ý chí. Mọi vận động của cơ thể đều xuất phát từ những xung động của ý chí, đều là những hình thái biểu đạt ra bên ngoài của ý chí. Cả những cơ quan chức năng lẫn hình dáng cơ thể đều là những phương thức biểu đạt. Từ đó Schopenhauer đã đi đến luận điểm cho rằng cơ thể con người chính là ý chí đã được khách thể hóa thành đối tượng có thể nằm thấy được. Nó vừa là một vật thể, nhưng xét theo góc độ “Vật tự nó” (cách gọi của Kant) thì đó là ý chí. Theo ông, cơ thể người chính là ý chỉ được khách thể hóa theo không gian và thời gian. Đó là chân lý triết học đích thực nhất.
Bản chất của con người (hiểu theo nghĩa là ý chí) không nằm trong ý thức, trong tư duy hay lương tri. Đó là sự làm ác muôn thuở của các triết gia mọi thời đại. Ông quan niệm rằng ý thức chỉ là bình điện bên ngoài của bản chất, y như lớp vỏ ngoài của trái đất chúng ta. Cả những tư tưởng, ý nghĩ cũng chỉ là bề mặt bên trên của một nguồn nước ngầm sâu thẳm. Quá trình hình thành những phán xét của chúng ta không phải là sự liên kết những ý nghĩ mạch lạc theo quy luật lôgic mà nó diễn ra từ nơi sâu thẳm, gần như là vô thức, giống như sự tiêu hóa.
Con người thường kinh ngạc vì chính mình bất chợt có những ý nghĩ, những quyết định nảy sinh không thể lý giải được vì đâu. Trong chốn thâm sâu đầy bí hiểm luôn có ý chí ngự trị, nó điều khiển kẻ nô bộc của mình là con người. Nhưng ý chí chỉ là kẻ cai trị mù lòa. Nó vác trên vai mình một kẻ bị tê liệt nhưng nhìn được vạn vật. Con người dường như được kéo về phía trước, nhưng thực ra thì nó được đấy từ phía sau, từ một nơi bí huyền sâu thẳm. Sức mạnh ấy chính là ý chí sống vô thức, nó không hề biến đổi, tồn tại trong mọi mạch tư duy và hành vi con người. Cả trí nhớ cũng chỉ là cô hầu gái của ý chí. Những gì con người gọi là tính cách hay nhân cách cũng đều do ý chí quyết định. Mọi chức năng hữu thức đều thấm mệt và cần đến giấc ngủ, duy chỉ có ý chí là vĩnh viễn tỉnh táo, giống như sự hô hấp, như hoạt động của trái tim, không ngừng và không bao giờ mệt mỏi, vì tất cả đều diễn ra một cách vô thức.
Schopenhauer cũng đã vận dụng quan điểm coi “cơ thể người vừa là hiện tượng vừa là ý chí được khách thể hóa” như một chiếc chìa khóa để lý giải bản chất của mọi hiện thực. Theo ông, mọi sự vật đều là một sự biểu đạt, một sự hiện thực hóa của ý chí ngự trị trong nó. Sức mạnh của ý chí ngự trị khắp nơi. Sức mạnh ấy khiến cho cỏ cây đâm chồi nẩy lộc và úa tàn, khiến cho cho nam châm quay về hướng bắc cực, khiến viên đá rơi xuống trái đất, kéo trái đất về hướng mặt trời… Nghĩa là cả thế giới đều là sự khách thể hóa của ý chí, thế giới là ý chí.
Với quan niệm ý chí là bản chất, là động lực điều hành vạn vật, Schopenhauer đã có những kiến giải đáng chú ý về con người, nhất là về quan hệ lứa đôi. Ở nơi con người, sự biểu đạt mạnh mẽ nhất của ý chí sống là động lực duy trì nòi giống. Động lực này mạnh tới mức khiến con người phớt mặc cả cái chết của cá nhân. Một khi sự bảo tồn cá thể được thực hiện thì sinh vật người vươn tới sự duy trì nòi giống nhằm bảo tồn chủng loại. Nếu nhận thức của con người ngư trị trong bộ não thì bộ phận sinh lý của nó là nơi ngự trị của động lực tính dục, là tiêu điểm của ý chí và đối cực của não bộ. Hai cá thể khác giới có sức hút mạnh mẽ đối với nhau, đó là nhờ sức mạnh bất khả kháng của ý chí sống thể hiện trong chủng loại.
Schopenhauer cũng đã áp dụng quan điểm này vào lịch sử. Theo ông, đằng sau tất cả mọi hiện tượng là ý chí bất di bất dịch của thế giới. Dù có sự khác biệt giữa các dân tộc, thời đại, trang phục, tập quán, ngôn ngữ… thì ở mọi nơi, một thời đại cũng vẫn chỉ là nhân loại ấy. Chỉ có sự khác biệt về vật chất, còn hình thái vẫn thế, vẫn là nhân loại muôn thuở. Do đó, theo ông, không có cái gọi là sự tiến bộ của lịch sử. Biểu tượng của mọi diễn biến đều là một vòng tròn. Mọi thời đại các nhà thông thái cũng chỉ nói những điều giống nhau, mọi kẻ gàn cũng chỉ nói những điều như nhau, và đàn ông đàn bà mọi thời đại cũng vẫn chỉ là những công cụ thực hiện ý chí sống trong chủng loại.
Lời kết
Trong khi con người tự trói buộc mình bởi các xiềng xích và giáo lý khô cứng thì Schopenhauer đã chỉ dạy, và rao giảng cho một lối sống tự do, tự tại, khai thác những yếu tố bản thể nguyên thủy trong sáng của thuở hồng hoang. Lý thuyết của Schopenhauer là nền tảng cho triết học hiện sinh, lý thuyết Phân tâm học… được phát triển mạnh mẽ để nhắc nhở con người nhớ tới quyền tự do mà sự lười biếng đã khiến họ lãng quên. Bởi vậy nhà soạn nhạc vĩ đại Richard Wagner đã sáng tác trong giai đoạn từ năm 1848 tới 1869 tặng cho Schopenhauer chùm operra “Der Ring des Nibelungen” (Chiếc nhẫn của người Nibelung), một tác phẩm âm nhạc được đánh giá là đã có ảnh hưởng lớn lao tới nền văn hóa hiện đại…
Chín năm sau khi Schopenhauer qua đời, một trong số những “đệ tử” của ông, văn hào Nga Liev Tolstoi đã viết: “Khi đọc ông ấy, tôi không sao hiểu nổi, vì đâu mà tên tuổi của ông lại gần như không được biết tới. Chỉ có một cách lý giải, bằng chính điều mà ông vẫn thường nhắc đi nhắc lại là, trên thế gian này, hầu như chẳng có ai ngoài những kẻ ngốc nghếch”. Còn Niztches thì cho rằng, Schopenhauer là nhà giáo dục vĩ đại nhất sau đấng Jesus cho nền triết học và tư tưởng Tây Âu.
Ngọc Cầm, TCPT số 48.